Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 10/03/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/03/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 10 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 307/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Hồng N, sinh năm 1985 (có mặt)

Trú tại: Số 219, khu vực Y, phường T, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ.

- Bị đơn: Anh Lê Văn C, sinh năm 1983 (vắng mặt)

Trú tại: ấp A, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai của nguyên đơn chị Lê Hồng N trình bày: Chị và anh Lê Văn C chung sống và đăng ký kết hôn năm 2009. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, nhưng thời gian sau thì phát sinh mâu thuẫn, do vợ chồng hay cải vã, bất đồng quan điểm. Nay chị N yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Lê Ngọc Q, sinh ngày 16/9/2009 và Lê Ngọc H, sinh ngày 24/10/2011, hiện đang sống với chị N, chị N yêu cầu nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Lê Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Về phần thủ tục từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo trình tự tố tụng. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn anh Lê Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Chị Lê Hồng N và anh Lê Văn C tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn năm 2009, nên được coi là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Theo lời khai của chị N thì thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng thời gian sau thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng thường hay cải vã, bất đồng quan điểm. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2018. Anh C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không có ý kiến gì với cuộc hôn nhân của anh, chứng tỏ anh C có thái độ bỏ mặc, không thiết tha hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng. Xét thấy chị N và anh C mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị N yêu cầu ly hôn là có cơ sở.

[3] Về con chung: Quá trình sống chung chị N và anh C có 02 người con chung tên Lê Ngọc Q, sinh ngày 16/9/2009 và Lê Ngọc H, sinh ngày 24/10/2011. Chị N yêu cầu nuôi con. Cháu Q và cháu H đã sống với chị N từ nhỏ, có được điều kiện phát triển tốt về đời sống vật chất cũng như tinh thần. Mặt khác 02 cháu có nguyện vọng sống với chị N. Nên Hội đồng xét xử giao con chung cho chị N nuôi dưỡng. Chị N tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng, nên anh C chưa phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đặt ra giải quyết.

[5] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị N phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56 và Điều 58 của Luật hôn nhân gia đình.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Hồng N và anh Lê Văn C được ly hôn.

Về con chung: Giao cháu Lê Ngọc Q, sinh ngày 16/9/2009 và Lê Ngọc H, sinh ngày 24/10/2011 cho chị Lê Hồng N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Q, cháu H tròn 18 tuổi. Anh Lê Văn C chưa phải cấp dưỡng nuôi con.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đặt ra giải quyết.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Lê Hồng N phải chịu là 300.000 đồng, khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị N đã đóng theo biên lai số 0001337 ngày 10 tháng 12 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang thành án phí. Chị N đã đóng xong án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng, thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 10/03/2020 về ly hôn

Số hiệu:08/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về