Bản án 08/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀN ÁN NHÂN DÂN TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 08/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28 tháng 02 năm 2019. Tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/HSST-QĐ ngày 14 tháng 02 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Ngô Văn H; Sinh năm 1977 tại: thành phố Y; Nơi cư trú: Đội 6 thôn T, xã C, TP Y, tỉnh Y; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Văn Hoa và bà Lã Thị Thành; Vợ: Nguyễn Thị H1; Có 02 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 27/8/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Y xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 năm 01 tháng 04 ngày về tội Cố ý gây thương tích; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Y từ ngày 30/8/2018. Có mặt.

2. Ngô Huy H; sinh ngày 10 tháng 5 năm 2002 tại: thành phố Y; Nơi cư trú: Đội 6 thôn T, xã C, TP. Y, tỉnh Y; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Văn H và bà: Nguyễn Thị H1; Tiền án, tiền sự: Không. Có mặt

- Đại diện theo pháp luật của bị cáo Huy H: Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1982 (mẹ đẻ của bị cáo); Nơi cư trú: Đội 6 thôn T, xã C, TP Y, tỉnh Y. Có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo Ngô Huy H: Bà Đỗ Thị Hải, trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Y. Có mặt

- Người bị hại: Anh Đào Đức B, sinh năm 1993; Trú tại: thôn T, xã P, thành phố Y, tỉnh Y. Vắng mặt

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1982; Trú tại: Đội 6, thôn T, xã C, thành phố Y, tỉnh Y. Có mặt

Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1978.

- Anh Đào Văn T, sinh năm 1980

- Ông Đào Xuân B, sinh năm 1967.

Đều cư trú tại: thôn T, xã P, thành phố Y, tỉnh Y.

- Ông Trần Văn D, sinh năm: 1965;

Trú tại: thôn T, xã C, thành phố Y, tỉnh Y. 

- Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1964. 

Đều cư trú tại: thôn Đ, xã K, thành phố Y, tỉnh Y và đều vắng mặt tại phiên tòa.

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1991.

 Cư trú tại: thôn Đ, xã K, thành phố Y, tỉnh Y. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngô Văn H kết hôn với chị Nguyễn Thị H1 năm 2001. Khoảng đầu tháng 7 năm 2018, H thấy chị H1 thường xuyên sử dụng mạng xã hội Zalo, Facebook để nhắn tin nên H nghi ngờ chị H1 có quan hệ tình cảm với người khác. Ngày 20/7/2018 H và chị H1 xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, H đã đuổi chị H1 về nhà bố mẹ đẻ ở xã K, thành phố Y. Với mục đích để kiểm tra xem có ai nhắn tin, gọi điện cho chị H1 hay không nên H đã giữ lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 sử dụng thuê bao số 01628062918, Zalo với tên nick “Nguyễn Thị H1”, có ảnh đại diện Avatar của chị H1. Đến khoảng 21 giờ 40 phút ngày14/8/2018 khi H  đang ở nhà cùng với hai con thì thấy tin nhắn qua mạng xã hội Zalo có tên nick “Đắng lòng” nhắn đến với nội dung “Mình làm bạn nhé”. Do nghi ngờ chị H1 ngoại tình từ trước với người có nick zalo trên và với mục đích làm rõ danh tính người này, H đã nhắn tin lại “Bạn là ai, tên là gì, ở đâu, mà vào nick kết bạn với mình” thì nick zalo “Đắng lòng” nhắn lại “Mình tên B ở Toàn Thắng, K”. Người sử dụng điện thoại có nick Zalo “Đắng lòng” là anh Đào Đức B, sinh năm 1993 ở thôn T, xã P, thành phố Y. Sau đó B tiếp tục nhắn tin hỏi địa chỉ, số điện thoại, chồng con có nhà không, có hay đi chơi tối không và rủ đi chơi. H nhắn tin trả lời “chồng mình đi vắng mấy hôm, ở nhà với hai con thôi”, rồi đồng ý đi chơi và cho số điện thoại 01628062918, địa chỉ là nhà có biển hiệu võ đường Ngô Văn H ở xóm Ba Vàng, thôn T, xã C và nhắn tin hỏi “Bạn làm nghề gì, bao nhiêu tuổi, chồng mình dạy võ bạn có sợ không, bạn đang ở đâu” thì B nhắn tin lại “Bí mật, mình ít tuổi hơn bạn”, “mình đang ở Quảng trường đi về, rồi lúc nữa mình qua đón bạn đi chơi”. Đến khoảng 22 giờ 04 phút cùng ngày, B gọi điện vào số máy trên thì H giả giọng nữ trò chuyện, H chỉ đường cho B vào nhà mình. H biết B sẽ đến nhà mình liền bảo con trai là Ngô Huy H, sinh ngày 10/5/2002 “Bồ của mẹ mày nhắn tin, điện thoại rủ mẹ mày đi chơi đây này, nó đến đây bố con mình ra chặn bắt xem nó là thằng nào, ở đâu, như thế nào”. H lấy một đoạn tuýp nước phi 27 bằng kim loại, dài 1m65, đường kính 2,7cm dựng ở góc nhà rồi bảo Huy H lấy thanh kiếm tự chế ở gầm giường bằng kim loại dài 1m08, bản rộng 04cm, chuôi bằng gỗ có chiều dài 27,5cm đi ra ngã ba, hướng bên tay trái và cách nhà Huy H khoảng 18m đứng theo chỉ đạo của H là “Khi nó đến tao hô thì ra chặn bắt xem nó là thằng nào”. Huy H tay phải cầm kiếm đi đến đứng lấp ở ngã ba dưới dốc đầu ngõ, cách mép đường liên xã C khoảng 4m như H nói, còn H tay phải cầm tuýp sắt đứng lấp ở ngã ba dưới dốc trong ngõ, cách nhà mình khoảng 12m, tay trái cầm điện thoại để tiếp tục liên lạc với B. Khoảng 22 giờ 15 phút B gọi điện thoại cho H, lúc này H đang ở vị trí phục để chặn bắt anh B, qua trò chuyện H biết B đang đi đến rặng cây bạch đàn cách nhà H khoảng 300m. Khi anh B đi xe mô tô Airblade biển số 89B1-204.03 đến gần vị trí nơi H đứng lấp thì thấy H cởi trần mặc quần lửng tay phải cầm tuýp sắt xông lên hô: “Nó đây rồi” theo phản xạ B phóng xe mô tô nhanh qua vị trí H đứng, đi được khoảng gần 30m thì Huy H từ vị trí lấp sẵn chạy ra, khi đến sườn dốc thấp hơn mặt đường liên xã khoảng 20-30cm, cách mép đường khoảng 02m, cách anh B khoảng 03m, Huy H định dùng chân phải đạp vào xe mô tô để chặn bắt anh B, nhưng do anh B phóng xe mô tô đi qua nên không đạp được, Huy H cầm kiếm bằng tay phải dơ lên phi lao theo cắm trúng vào mông bên trái anh B. Anh B điều khiển xe mô tô bỏ chạy đến đường bê tông liên xã P điện thoại báo cho gia đình đến và được mọi người đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Việt Đức, đến ngày 24/8/2018 được chuyển về Bệnh viện Đa khoa tỉnh Y tiếp tục điều trị, đến ngày 20/9/2018 thì ra viện.

Ngày 29/8/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Y đã ra Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Ngô Văn H và ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Ngô Huy H.

Khám xét khẩn cấp đối với nơi ở của Ngô Văn H thu giữ: 01 điện thoại Iphone 5 vỏ màu trắng; 01 thanh tuýp bằng kim loại dài 1,65m, đường kính 2,7cm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A7 vỏ màu trắng. Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra phát hiện có 01 cuộc hội thoại giữa H và chị H1 dài 8 phút 56 giây, đã được sao lưu ra USB; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus vỏ màu trắng và của Ngô Huy H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 vỏ màu trắng vàng.

Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1978 ở thôn T, xã P, thành phố Y giao nộp: 01 chuôi gỗ có gắn lưỡi kiếm có tổng chiều dài 54 cm, phần chuôi gỗ có chiều dài 27,5 cm, điểm rộng nhất phần lưỡi kiếm 04 cm; ông Nguyễn Bá Tăng là Bác sỹ giải phẫu Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức Hà Nội giao nộp: 01 lưỡi kiếm bằng kim loại, một đầu mũi nhọn, có tổng chiều dài 54 cm, lưỡi kiếm phần rộng nhất là 04 cm.

Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 6426/C09-TT1 ngày 28/11/2018 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: anh Đào Đức B bị vết thương đi qua cánh chậu trái vào tiểu khung. Hiện tại để lại các thương tích và di chứng sau: Sẹo phẫu thuật thăm dò ổ bụng đơn thuần; sẹo vết thương, sẹomổ kích thước lớn vùng mông trái; mẻ mào chậu trái; tổn thương không hoàn toàn các rễ thần kinh L4, L5,  S1, S2 bên trái. Áp dụng phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể quy định tại Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ y tế, xác định tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Đào Đức B tại thời điểm giám định là: 53% (Năm mươi ba phần trăm). Cơ chế hình thành thường tích: Thương tích của anh Đào Đức B là do vật sắc nhọn gây nên.

* Về trách nhiêm dân sự: Quá trình cấp cứu và điều trị, anh Đào Đức B kê khai hết số tiền 37.797.589 đồng. Chị Nguyễn Thị H1 đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho anh B số tiền 50.000.000 đồng. Anh B không yêu cầu các bị can H, Huy H bồi thường trách nhiệm dân sự và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị can.

Tại bản cáo trạng số 08/QĐ-VKS-P2 ngày 10/1/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Y, truy tố các bị cáo Ngô Văn H và Ngô Huy H về tội Cố ý gây thương tích, theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như nội dung bản cáo trạng đồng thời phân tích tính chất vụ án, hành vi phạm tội, vai trò, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 17; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với Ngô Văn H. Xử phạt Ngô Văn H từ 06 năm đến 07 năm tù.

Áp dụng Điều 17; Điều 54; Điều 58; Điều 65; điểm b,s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với Ngô Huy H. Xử phạt Ngô Huy H từ 2 năm 09 tháng đến 03 năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 01 tuýp sắt; 01 chuôi gỗ; 01 lưỡi dao bằng kim loại. Trả lại chị Nguyễn Thị H1 01 điện thoại Iphone 5 màu ghi trắng.

Người bào chữa cho bị cáo Ngô Huy H ( Trợ giúp viên pháp lý Đỗ Thị Hải) phát biểu quan điểm: Không tranh luận về tội danh và điều luật Kiểm sát viên đã đề nghị áp dụng đối với các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo Huy H phạm tội khi chưa thành niên, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 02 năm 09 tháng tù cho hưởng án treo.

Các bị cáo Ngô Văn H và Ngô Huy H (và người đại diện hợp pháp cho bị cáo Huy H) không có ý kiến tranh luận gì khác.

Tại phần nói lời sau cùng các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]- Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Điều tra- Công an tỉnh Y; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Y; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ giai đoạn điều tra cho đến phiên tòa sơ thẩm đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]- Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại phiên tòa các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với nội dung bản cáo trạng, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định pháp y thương tích, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Tối ngày 14/08/2018, Ngô Văn H phát hiện anh Đào Đức B dùng zalo có tên nick “Đắng lòng” nhắn tin vào zalo của chị Nguyễn Thị H1. Sau đó H nhắn tin và điện thoại nói giả giọng phụ nữ để bảo anh B đến đón đi chơi. Khoảng 22 giờ 15 phút ngày 14/08/2018, tại khu vực cổng nhà Ngô Văn H ở thôn T, xã C, Thành phố Y, H bảo con trai là Ngô Huy H cùng mình ra chặn bắt và đánh anh B. H cầm một đoạn tuýp phi 27 bằng kim loại, dài 1m65, đường kính 2,7cm và bảo Huy H lấy thanh kiếm tự chế bằng kim loại dài 1m08, bản rộng 04cm, chuôi bằng gỗ có chiều dài 27,5cm để chặn bắt và đánh anh B. H và Huy H ra đứng lấp ở hai đầu ngõ cách nhau 36m thì anh B đi xe mô tô Airblade biển số 89B1-204.03 đến, H cầm tuýp sắt xông lên hô “nó đây rồi” thấy vậy, anh B phóng xe mô tô nhanh qua vị trí H đứng, đi được khoảng 30m thì Huy H từ vị trí lấp sẵn chạy ra lề đường, tay phải cầm kiếm phi lao theo làm mũi kiếm cắm trúng vào mông bên trái anh B. Hậu quả anh B bị tổn thương 53% sức khỏe.

Ngô Huy H phạm tội khi 16 tuổi 03 tháng 04 ngày nên đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự . Do đó có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Ngô Văn H và Ngô Huy H phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ về sức khỏe của người khác, gây mất trật tự trị an và tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Trong vụ án này Ngô Văn H là người khởi xướng, nên giữ vai trò chính, Ngô Huy H là người thực hiện. Bị cáo Huy H phạm tội khi dưới 18 tuổi nên Ngô Văn H phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về nhân thân: Ngày 27/8/2013, Ngô Văn H bị Tòa án nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Y xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 năm 01 tháng 04 ngày về tội Cố ý gây thương tích. Do đó cần phải áp dụng với bị cáo mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa và giáo dục chung.

[5]- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa cả hai bị cáo đều thành khẩn khai báo; gia đình đã bồi thường cho người bị hại và người bị hại có đơn xin giảm hình phạt; Tại phiên tòa gia đình hai bị cáo có đơn xin giảm hình phạt cho hai bị cáo có xác nhận của chính quyền địa phương trình bày: bị cáo H có bố đẻ, bị cáo Huy H có ông nội là ông Ngô Văn Hoa có thời gian tham gia quân đội làm nhiệm vụ quốc tế tại nước bạn Cămpuchia. Mặt khác trong vụ án này người bị hại cũng có lỗi một phần khi biết chị Nguyễn Thị H1 đã có gia đình nhưng vẫn nhắn tin qua lại và rủ đi chơi nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Huy H phạm tội khi mới 16 tuổi 03 tháng 04 ngày nên cần áp dụng quy định tại Điều 91, Điều 98, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt.

Xét bị cáo Ngô Huy H phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi là lứa tuổi chưa có sự phát triển đầy đủ về thể chất lẫn tinh thần. Ở lứa tuổi này bị cáo đang trong giai đoạn tâm sinh lý chuyển từ trẻ em sang người lớn nên còn bồng bột, nông nổi, ngoài ra do thiếu kinh nghiệm sống bị chính bố đẻ rủ rê, lôi kéo. Mặt khác, sự hiểu biết về xã hội và pháp luật còn hạn chế dẫn đến lựa chọn hành vi ứng xử thiếu chính xác, không phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội. Bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bởi vậy nên áp dụng quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, áp dụng hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Y và đề nghị của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa.

[6]- Về bồi thường dân sự: Quá trình cấp cứu và điều trị, anh Đào Đức B kê khai chi phí hết số tiền 37.797.589 đồng. Chị Nguyễn Thị H1 đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho anh B số tiền 50.000.000 đồng. Anh B không yêu cầu các bị cáo H, Huy H bồi thường trách nhiệm dân sự nên không đặt vấn đề giải quyết.

 [7]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 thanh tuýp bằng kim loại dài 1,65m, đường kính 2,7cm; 01 chuôi gỗ có gắn lưỡi kiếm có tổng chiều dài 54cm, phần chuôi gỗ có chiều dài 27,5cm, điểm rộng nhất phần lưỡi kiếm 04cm; 01 lưỡi dao bằng kim loại, một đầu mũi nhọn, có tổng chiều dài 54cm, lưỡi phần rộng nhất là 04cm bị cáo H, Huy H sử dụng để gây thương tích cho anh B không còn giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại Iphone 5 màu ghi trắng thu của Ngô Văn H nhưng là tài sản của chị Nguyễn Thị H1, chị H1 không biết H sử dụng điện thoại để nhắn tin hẹn anh B nên trao trả để chị H1 sử dụng.

- Đối với 01 USB nhãn hiệu Kingston, chứa file ghi âm thời lượng 08 phút 56 giây được trích xuất từ điện thoại của H là chứng cứ của vụ án cần được lưu giữ kèm theo hồ sơ vụ án.

[8]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 3; Điều 21; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

1. Về tội danh:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Ngô Văn H và Ngô Huy H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng: điểm c khoản 3 Điều 134, Điều 17; Điều 38; Điều 58; điểm b,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Ngô Văn H

Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn H 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 30/8/2018 

Áp dụng: điểm c khoản 3 Điều 134, Điều 17; Điều 58; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; khoản 1, 2, 5 Điều 65; Điều 91; khoản 3 Điều 98; Điều 100 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Ngô Huy H

Xử phạt: Ngô Huy H 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 (năm) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 28/02/2019.

Giao bị cáo Ngô Huy H cho Ủy ban nhân dân xã C, thành phố Y, tỉnh Y giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Ngô Huy H.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu, cho tiêu hủy: 01 thanh tuýp bằng kim loại dài 1,65m; 01 chuôi gỗ có gắn lưỡi kiếm có tổng chiều dài 54cm; 01 lưỡi dao bằng kim loại, một đầu mũi nhọn, có tổng chiều dài 54cm.

- Trả lại chị Nguyễn Thị H1 01 điện thoại Iphone 5 màu ghi trắng

- Lưu kèm theo hồ sơ vụ án 01 (một) USB nhãn hiệu Kingston 

 (Số lượng, chủng loại, đặc điểm, tình trạng vật chứng theo quyết định chuyển vật chứng số 06/QĐ-KSV-P2 ngày 15 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Y).

4. Về án phí: Bị cáo Ngô Văn H và Ngô Huy H mỗi người phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Huy H là chị Nguyễn Thị H1 có trách nhiệm nộp thay bị cáo số tiền trên.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo Huy H, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:08/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về