Bản án 08/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 về tội Trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN  08/2019/HS-ST NGÀY 21/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 301/2018/HSST ngày 26-12-2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm: 1979. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chổ ở hiện nay: số 09 đường L, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang. Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Th1 (đã chết) và bà Lâm Thu Th2; Chồng Lâm Văn Ngh, nghề nghiệp: ngư phủ. Bị cáo có 03 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2009.

*Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Ông Đỗ Huy T, sinh năm: 1973 (có mặt)

Bà Lê Thị Tr, sinh năm: 1974 (có mặt)

Địa chỉ: số 680/1B đường N, khu phố 3, phường V, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Chổ ở hiện nay: số 05 đường Q, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo H là người giúp việc nhà cho ông Đỗ Huy T và bà Lê Thị Tr tại nhà số 05 đường Q, khu phố 1, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang. Vào khoảng 09 giờ ngày 23-8-2018 trong lúc dọn dẹp tại gian thứ hai của căn nhà, H phát hiện một con heo đất màu vàng để tiền tiết kiệm của vợ chồng ông Thuần đang để trong tủ nên nảy sinh ý định lấy trộm tiền trong heo đất. H quan sát không thấy vợ chồng ông Thuần nên liền dùng một cây tăm bằng tre móc tiền trong heo đất để lấy trộm. Lúc này heo đất rớt xuống nền nhà và văng thành nhiều mãnh và văng số tiền trong heo đất ra nhiều tờ tiền có mệnh giá 200.000 đồng; 100.000 đồng; 50.000 đồng H lấy tất cả số tiền trong heo đất bỏ vào một mãnh vải dùng lau nhà và để vào trong cái thùng để lau nhà đem sang cất dấu dưới bếp (gian nhà số 1) chờ cơ hội để lấy tiêu xài. Để tránh bị vợ chồng ông Thuần phát hiện, H lấy 300.000 đồng trong số tiền trộm của vợ chồng ông T đi đến chợ Tắc Ráng mua 01 nồi cơm điện giá 310.000 đồng và 01 con heo đất giống heo đất cũ với giá 35.000 đồng đem về gian nhà số 02 định tráo đổi thì bị ông Thuần phát hiện. Ông T nói với H nếu không giao số tiền ra thì sẽ báo công an nên H đem số tiền giao ông T, ông T đếm số tiền còn lại 10.115.000 đồng. Ông T cho rằng số tiền vợ chồng ông đã bỏ tiết kiệm vào heo đất từ ngày 25-02-2018 đến ngày 23-8-2018 là khoảng 36.000.000 đồng nên ông T đã báo công an phường H. Công an phường H đã mời H làm việc và lập biên bản tạm giữ số tiền 10.115.000 đồng có sự chứng kiến của H. Tại cơ quan công an H đã thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của vợ chồng ông T nhưng do H không đếm số tiền đã trộm nên không xác định được bao nhiêu tiền.

Đến ngày 26-10-2018 H bị Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố G khởi tố để điều tra.

Vật chứng thu giữ: Tiền Việt nam 10.115.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại số tiền này cho vợ chồng ông T.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là ông Đỗ Huy T và bà Lê Thị Tr đã nhận lại số tiền 10.115.000 đồng và 01 nồi cơm điện; 01 con heo đất, số tiền còn lại ông Thuần và Trúc yêu cầu bị cáo H bồi thường là 25.585.000 đồng.

Từ các tình tiết nêu trên, tại bản Cáo trạng số 06/CT - VKSTPRG ngày 21-12-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố G đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố G giữ quyền công tố luận tội đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Nguyễn Thị Thu H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù; Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã giao trả số tiền 10.115.000 đồng và 01 nồi cơm điện, 01 con heo đất cho bị hại nên không đề nghị xem xét. Về trách nhiệm dân sự: tại phiên tòa bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 25.585.000 đồng đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Thu H khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với vị đại diện Viện kiểm sát. Đối với số tiền bồi thường thiệt hại 25.585.000 đồng theo yêu cầu của bị hại thì bị cáo không đồng ý bồi thường vì bị cáo không biết số tiền lấy trộm cụ thể bao nhiêu nhưng toàn bộ số tiền trong con heo đất bị cáo lấy cất dấu và đã giao nộp lại cho bị hại 10.115.000 đồng và nồi cơm điện với 01 con heo đất mới.

Tại phiên tòa bị hại là ông Đỗ Huy T và bà Lê Thị Tr cho rằng số tiền bỏ tiết kiệm từ tháng 2-2018 đến ngày 23-8-2018 mỗi ngày bỏ 200.000 đồng nên khoảng 36.000.000 đồng. Bị hại đã nhận số tiền 10.115.000 đồng; 01 nồi cơm điện do bị cáo mua để cấn trừ số tiền 300.000 đồng và 01 con heo đất mới. Nay tại phiên tòa bị hại không có chứng cứ chứng minh số tiền trong con heo đất là 36.000.000 đồng và thấy hoàn cảnh bị cáo khó khăn nên không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 25.585.000 đồng. Về trách nhiệm hình sự thì đề nghị Tòa án xét xử theo quy định pháp luật.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, ý kiến của bị hại và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến Hnh tố tụng, người tiến Hnh tố tụng.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo đã phù hợp với nội dung Cáo trạng, kết luận điều tra, lời khai của bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó khẳng định:

Bị cáo Nguyễn Thị Thu H là người giúp việc nhà cho ông T bà Tr. Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 23-8-2018 trong lúc lau dọn nhà cửa thấy con heo đất để tiền tiết kiệm của ông T bà Tr đang để trong tủ gỗ đặt trong gian nhà thứ hai. Bị cáo đã lén lút lấy trộm toàn bộ số tiền trong con heo đất đem cất dấu trong gian nhà bếp để tìm cơ hội chi xài. Bị cáo lấy 300.000 đồng trong số tiền trộm được đi ra chợ Tác Ráng mua 01 nồi cơm điện và 01 con heo đất giống con heo đất ban đầu tính sẽ dùng nồi cơm điện cất dấu heo đất bên trong và đem về tráo đổi nhưng đã bị ông T phát hiện. Tài sản bị chiếm đoạt đã thoát ly khỏi vị trí quản lý của chủ sở hữu, tổng số tiền bị cáo lấy trộm là 10.415.000 đồng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Thu H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, truy tố bị cáo theo các điều khoản như trên của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Xét nhân thân, tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án hay tiền sự. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và ý thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham bị cáo cố ý trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, làm mất trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất hành vi phạm tội, đồng thời cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét thấy, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa thành khẩn khai báo, tài sản trộm được đã được giao lại cho chủ sở hữu nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó cần xử phạt bị cáo hình phạt tù với mức khởi điểm theo đề nghị của đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố G đã đủ để răn đe và giáo dục bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng”. Hội đồng xét xử xét hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo đang có 03 con, bản thân bị cáo đi làm thuê nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị hại đã nhận lại số tiền 10.115.000 đồng và 01 nồi cơm điện bị cáo dùng 300.000 đồng trộm được để mua và 01 con heo đất mới bị cáo dùng bồi thường cho bị hại. Trong quá trình điều tra bị hại cho rằng số tiền trong con heo đất là khoảng 36.000.000 đồng nên yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản tiền 25.585.000 đồng. Nhưng tại phiên tòa bị hại không cung cấp được chứng cứ chứng minh số tiền trong heo đất là 36.000.000 đồng nên không yêu cầu bị cáo bồi thường khoản tiền 25.585.000 đồng nữa. Việc rút yêu cầu của bị hại tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử thống nhất ghi nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố G đã xử lý đúng theo quy định tại Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30-12-2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị Thu H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu H 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày vào chấp Hnh án.

-Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị Thu H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 21-01-2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HS-ST ngày 21/01/2019 về tội Trộm cắp tài sản

Số hiệu:08/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về