Bản án 08/2019/HS-ST ngày 17/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 08/2019/HS-ST NGÀY 17/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Vũ K, sinh ngày 15/02/1995, tại xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau; HKTT: Ấp Tân Lợi B, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau. Nơi cư trú: Khóm 11, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn) 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Phạm Thị Đ; chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt truy nã ngày 02/12/2018 chuyển tạm giam đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm: 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp K, xã Đ, huyện N, tỉnh C ..

- Anh Trương Hồng H, sinh năm: 1992 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện P, tỉnh C ..

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn L và Nguyễn Vũ K là bạn bè, Lil rủ bị cáo cùng làm công nhân tại Khu khí điện đạm Cà Mau. Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 10/8/2018 bị cáo đi đến nơi anh L làm việc, sau đó anh L cùng bị cáo với anh Trương Hồng H và những người bạn của anh L tổ chức uống rượu, đến khoảng 12 giờ 30 cùng ngày thì nghỉ. Bị cáo thấy anh L bỏ điện thoại của mình là điện thoại Samsung J2 vào balo màu đỏ để trên bộ ván bằng gỗ, anh H lấy điện thoại của mình là Iphone 5s màu trắng để vào ba lô màu nâu treo lên vách. Bị cáo cùng với anh L, anh H đi ra ngoài làm việc, do bị cáo không có quần áo bảo hộ nên bảo vệ không cho làm nên bị cáo đi vào lại trong nhà. Khi đó bị cáo nảy sinh ý định lấy điện thoại của anh L và anh H bán để lấy tiền tiêu xài nên bị cáo đi đến bộ ván để ba lô màu đỏ dùng tay tìm trong ba lô và lấy được điện thoại hiệu Samsung J2 và điện thoại để gọi đò qua sông, sau đó đến chiếc ba lô màu nâu của anh H dùng tay lục tìm trong ba lô và lấy điện thoại hiệu Iphone 5s, màu trắng. Sau khi lấy điện thoại bị cáo qua sông lấy xe chạy về nhà, khi đến xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau bị cáo bán điện thoại hiệu Samsung màu bạc tại tiệm điện thoại Thanh ở xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau với giá 1.200.000 đồng, sau khi bán điện thoại, bị cáo ghé vào quán nước gần đó để nằm nghỉ.

Anh L và anh H khi phát hiện mất điện thoại đã điều khiển xe của mình đuổi theo đến xã Thạnh Phú thì gặp bị cáo tại quán nước và yêu cầu bị cáo trả lại điện thoại. Bị cáo trả lại 01 điện thoại của anh H và nói điện thoại của anh L đã bán. Anh L và anh H báo Công an huyện Cái Nước lập biên bản sự việc.

Kết luận định giá số 22/KL-HĐĐG ngày 22/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện U, kết luận giá trị của chiếc điện thoại di động hiệu Samsung galaxy J2 Prime màu bạc, Emeil 35904609126890 có giá 1.800.000 đồng, điện thoại Iphone 5s 16Gb màu trắng Emeil 352085079867029 có giá 3.000.000 đồng.

Vật chứng thu giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung galaxy J2 Prime màu bạc, Emeil 35904609126890; 01 điện thoại Iphone 5s 16Gb màu trắng Emeil 352085079867029 đã trả cho chủ sở hữu là anh L và anh H;

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Winner màu xanh – trắng, biển số 69E1- 434.66 đã trả lại cho bà Phạm Thị Đ.

Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 26 tháng 02 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện U đã truy tố bị cáo Nguyễn Vũ K về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 và điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt

Nguyễn Vũ K từ 06 tháng đến 09 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Trách nhiệm dân sự không yêu cầu nên không xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Vũ K khai nhận: bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo là đúng.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo trở về gia đình vì thời gian tạm giam bị cáo đã ăn năn hối cải.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cũng như người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Vũ K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng và thừa nhận lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra là do bị cáo tự khai báo, không bị ép buộc hay bị một tác động nào buộc bị cáo khai, do đó lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu cơ quan điều tra thu thập là chứng cứ. Các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, từ đó Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định: 

Vào khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 10/8/2018 tại Khu công nghiệp Khí điện đạm Cà Mau thuộc ấp 6, xã Khánh An, huyện U, tỉnh Cà Mau, bị cáo Nguyễn Vũ K đã thực hiện hành vi lén lút lấy hai điện thoại hiệu Samsung hiệu J2 và điện thoại hiệu Iphone 5s của anh Nguyễn Văn L và anh Trương Hồng H. Sau khi lấy điện thoại của anh L và anh H bị cáo điều khiển xe về nhà, khi đến xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau bị cáo bán điện thoại hiệu Samsung J2 giá 1.200.000 đồng tại tiệm điện thoại tên Thanh, sau đó ghé quán nước nghỉ thì bị anh L và anh H đuổi theo đòi lại điện thoại thì bị cáo trả lại điện thoại hiệu Iphone 5s và nói điện thoại còn lại đã bán. Anh L và anh H báo Công an xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước sự việc. Hai điện thoại được định giá tổng cộng là 4.800.000 đồng.

[3] Xét thấy bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý do nhận thức được việc lén lút lấy tài sản của người khác là vi phạm pháp pháp luật nhưng do muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài mà không phải lao động nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, giá trị tài sản được xác định là 4.800.000 đồng; Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác một cách trái pháp luật, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện U truy tố bị cáo Kha là có căn cứ.

Tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản bị cáo trộm cắp đã trả lại cho người bị hại nên không gây thiệt hại, bị cáo có ông nội và bà nội là ông Nguyễn Công L và bà Võ Thị Đ được tặng huân chương kháng chiến hạng nhất và hạng nhì là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên áp dụng cho bị cáo.

Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, tuy nhiên trong thời gian điều tra bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điều tra, hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng đến tình an ninh trật tự tại địa phương nên cần thiết phải có hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo với xã hội một thời gian để bị cáo được giáo dục học tập để trở thành công dân biết chấp hành pháp luật. Đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ.

[4] Về trách nhiệm dân sự anh L, anh H là người bị hại đã nhận lại tài sản không có yêu cầu thêm nên đặt ra xem không xem xét.

[5] Vật chứng thu giữ cơ quan điều tra đã xử lý gồm: điện thoại hiệu Samsung và điện thoại hiệu Iphone 5s đã trả lại cho anh L và anh H là chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ. Xe máy bị cáo sử dụng vào ngày thực hiện hành vi trộm, xét thấy bị cáo không sử dụng cho mục đích phạm tội nên cơ quan điều tra đã trả lại là có căn cứ.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Vũ K phạm tội trộm cắp tài sản.

- Xử phạt: Nguyễn Vũ K 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính kể từ ngày 02/12/2018.

- Trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét.

- Vật chứng vụ án đã được xử lý xong nên không xem xét.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Vũ K phải nộp án phí hình sự 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

- Bị cáo có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HS-ST ngày 17/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:08/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện U Minh - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về