Bản án 08/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 08/2019/HS-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 4 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sốp Cộp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo sau đây:

Họ và Tên: Tòng Văn K - Sinh năm 1991, tại huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

Nơi cư trú: Bản Tông, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La;

Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không;

Quốc tịch: Việt Nam

Con ông Tòng Văn N và bà Quàng Thị T; bị cáo chưa có vợ, con

Tiền án, tiền sự: không;

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/11/2018; Có mặt tại phiên toà.

* Người bào chữa cho bị cáo Tòng Văn K là Ông Lò Văn Dịch, Luật sư thực hiện việc trợ giúp pháp lý thuộc đoàn Luật sư tỉnh Sơn La; Có mặt

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Quàng Thị T – Sinh năm 1968

Nơi cư trú: Bản Tông, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 45 phút ngày 27 tháng 11 năm 2018, tại khu vực bản Tông, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tổ công tác của Công an huyện Sốp Cộp đã phát hiện và bắt quả tang Tòng Văn K đang có hành vi cất dấu trái phép chất ma tuý; vật chứng thu giữ tại cốp xe máy của Tòng Văn K đang sử dụng một gói nilon màu hồng bên trong có chứa 2 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp; thu giữ 01 xe máy hiệu Wve RS 110, biển kiểm soát 26F1-001.24; Tòng Văn K bị bắt giữ bị dẫn giải đến cơ quan công an huyện Sốp Cộp để làm rõ.

Ngày 28/11/2018, cơ quan điều tra đã mở niêm phong cân tịnh vật chứng thu giữ của Tòng Văn K và lấy mẫu giám định, xác định như sau: 02 viên nén màu hồng thu giữ của Tòng Văn K có khối lượng là 0,20 gam, đã lấy hết 0,20 gam làm mẫu giám định, ký hiệu K, vật chứng còn lại là 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 01 mảnh nilon màu hồng nhập vào kho vật chứng của Công an huyện Sốp Cộp.

Kết luận giám định số 23 ngày 30 tháng 11 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu K là ma túy, loại Methamphetamine; mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, đã truy tố Tòng Văn K về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 27/11/2018 bị cáo sử dụng xe máy của gia đình đến khu vực Cụm Co Hạ, bản Khá, xã Mường Lạn để tìm mua ma túy sử dụng; khi đến bị cáo đã gặp người tên là T, qua trao đổi bị cáo đã mua được của người này 2 viên ma túy tổng hợp với giá là 80.000 đồng; sau khi mua bị cáo cho gói ma túy vào cốp xe máy rồi điều khiển xe máy về nhà, khi đi đến khu vực bản Tông, xã Mường Và thì bị tổ công tác của Công an huyện Sốp Cộp kiểm tra, phát hiện và bắt giữ.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bầy lời luận tội, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; tuyên xử phạt bị cáo từ 13 đến 16 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; tịch thu để tiêu hủy mảnh nilon màu hồng; 01 phong bì niêm phong ban đầu; trả lại chiếc xe máy biển kiểm soát 26F1-001.24 cho bà Quàng Thị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo đã trực tiếp mua và cất dấu 0,2 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng; Hành vi đó đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm được quy định tại điều 249 Bộ luật hình sự; số lượng ma túy bị cáo cất dấu là không lớn, do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền về quản lý của nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội; số lượng ma tuý bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ lây lan, trôi nổi trong xã hội, làm cho tệ nạn ma tuý tại địa phương ngày càng phức tạp, gây mất trật tự an toàn xã hội; Do đó, bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, chính quyền địa phương nơi cư trú xác nhận ngoài lần phạm tội này bị cáo chưa lần nào bị xử lý vi phạm do thực hiện hành vi trái pháp luật;

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng;

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong phần tranh luận người bào chữa cho bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, số lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn, quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, đề nghị cho bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp luật và cho bị cáo hưởng mức thấp nhất; ý kiến bào chữa của luật sư là có căn cứ chấp nhận; do đó bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

[5] Bị cáo phạm tội về ma tuý và là đối tượng sử dụng chất ma tuý, do đó phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cải tạo và đoạt tuyệt với ma tuý.

[6] Đối với người đã trực tiếp bán ma túy cho bị cáo là đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý về hình sự, nhưng do không xác định được đối tượng, do đó chưa có căn cứ để xử lý ở vụ án này; đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

[7] Về vật chứng: Vật chứng của vụ án là 0,2 gam Methamphetamine, đã lấy hết 0,2 gam làm mẫu giám định và đã sử dụng hết trong quá trình giám định; vật chứng còn lại là 01 phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh nilon màu hồng, đều là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy; Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 26F1-001.24 là tài sản của gia đình bị cáo và chủ sở hữu không biết việc bị cáo dùng vào việc phạm tội, do cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý lẽ ra ngoài hình phạt tù bị cáo sẽ phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định của khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự, nhưng xét thấy bị cáo chưa có gia đình riêng và không có tài sản riêng, kinh tế phụ thuộc vào gia đình sẽ không có điều kiện thi hành, do đó có thể xem xét miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về án phí bị cáo phải chịu án phí theo qui định của Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326 Của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Tòng Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Tòng Văn K 15 (mười lăm) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 27 tháng 11 năm 2018

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo

4. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì màu trắng niêm phong ban đầu; 01 mảnh nilon màu hồng

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; trả lại bà Quàng Thị T 01(một) xe máy nhãn hiệu Wave RS 110, màu đỏ-trắng-đen, biển kiểm soát 26F1-001.24, số máy 0880058, số khung 009705, xe đã qua sử dụng.

Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 07/3/2019 giữa chi cục thi hành án dân sự huyện Sốp Cộp và Công an huyện Sốp Cộp.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo Tòng Văn K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:08/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về