TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 08/2019/HS-PT NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 29 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 94/2018/TLPT- HS ngày 13 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Phan Văn H do có kháng cáo của bị cáo Phan Văn H; kháng cáo của người bị hại anh Hoàng Minh T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2018/HS-ST ngày 09/11/2018 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới.
Bị cáo kháng cáo: Phan Văn H, sinh ngày: 15 tháng 11 năm 1976 tại xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Cư trú tại: Thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Thợ xây; trình độ văn hoá: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Hồng Ng (đã chết) và bà Phạm Thị N; có vợ Phan Thị Ng, có 02 con sinh các năm 2007 và 2012; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện đang tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Phan Văn H: Bà Trần Thị An – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
- Người bị hại có kháng cáo: Anh Hoàng Minh T, sinh ngày 16 tháng 9 năm 1994, cư trú tại: Thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
Vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văn N, anh Phan Mạnh V; có người làm chứng anh Nguyễn Thanh C, anh Phan Tiến D, anh Phạm Hải T nhưng không có kháng cáo, Bản án sơ thẩm không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập tham gia phiên toà phúc thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 01 tháng 02 năm 2018, tại khu vực lán xây dựng tầng trệt dãy nhà A Bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam – Cu Ba Đồng Hới thuộc Tổ dân phố 14, phường Nam Lý, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Phan Văn H và nhóm công nhân ăn cơm về thấy cửa lán khóa, H điện thoại cho Hoàng Minh T là thợ xây trong đoàn đưa chìa khóa về mở cửa. Khoảng 10 phút sau T chạy xe máy về dựng trước chỗ H đang ngồi, rút chìa khóa để trên yên xe máy và nói “Chìa khóa đây”. H hỏi “Sao không đưa chìa khóa cho những người về trước”, T trả lời “Không có ai hỏi nên em không đưa”. H nói với T “Phải sống đẹp vô”. T tỏ vẽ tức giận rồi chửi H. H bức xúc dùng tay phải cầm một cái xẻng đánh vào đầu T, T ngã xuống đất bất tỉnh, được mọi người đưa vào cấp cứu tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam Cu Ba - Đồng Hới. Đến 19 giờ 50 phút cùng ngày T được gia đình chuyển vào cấp cứu điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế từ ngày 01 tháng 02 năm 2018 đến ngày 14 tháng 3 năm 2018 ra viện.
Tại bản Kết luận giám định Pháp y về thương tích số 17/TgT ngày 13 tháng 4 năm 2018 của Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y Sở Y tế tỉnh Quảng Bình kết luận: Chấn thương, vết thương thái dương - đỉnh phải làm vỡ xương thái dương - đỉnh phải; Tụ máu dưới màng cứng bán cầu não phải; Xuất huyết nhu mô não vùng chẩm phải, thùy trán hai bên và thùy trán đỉnh trái; Xuất huyết dưới nhện thùy trán hai bên, thùy thái dương phải, lều tiểu não và liềm đại não, phù não lan tỏa. Hiện tại hết máu tụ dưới màng cứng bán cầu não phải, khuyết sọ đáy chắc thái dương đỉnh phải kích thước 22,3 x 12,6mm; các ổ teo khuyết não do di chứng tổn thương cũ ở thuỳ trái hai bên kích thước 58 x 47 x 50mm, thùy đỉnh trái kích thước 17 x19 x 22mm, liên thùy thái dương - trán phải kích thước 60 x 8 x 45mm, liên thùy thái dương - đỉnh- chẩm phải kích thước 24 x 62 x 50mm.Vết mổ trùng vết thương để lại sẹo kích thước 8 x 1,2cm. Thương tích do chấn thương, vết thương thái dương - đỉnh phải có gây cố tật và gây nguy hiểm cho tính mạng Hoàng Minh T. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 73%.
Vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 cái xẻng cán bằng tre dài khoảng 1,6m, lưỡi bằng kim loại.
Về trách nhiệm dân sự: Hoàng Minh T yêu cầu Phan Văn H bồi thường chi Mphí điều trị tổn thương sức khỏe, tinh thần 298.395.473 đồng. Gia đình Phan Văn H đã bồi thường 97.000.000 đồng.
Cáo trạng số: 49/CT – VKSĐH-TA ngày 27 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới truy tố bị cáo Phan Văn H về tội "Cố ý gây thương tích" quy định tại điểm d, khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 59/2018/HS-ST ngày 09 tháng 11 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới quyết định tuyên bố bị cáo Phan Văn H phạm tội “Cố y gây thương tích”.
Áp dụng điểm d khoản 4 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 48, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Các Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Phan Văn H 06 năm 06 tháng tù (sáu năm sáu tháng). Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Buộc Phan Văn H bồi thường cho bị hại Hoàng Minh T số tiền 102.552.747 đồng, khấu trừ số tiền 97.000.000 đồng đã bồi thường, còn phải bồi thường tiếp5.552.747 đồng, buộc bị cáo phải chịu lãi suất khi chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án theo đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hánh án; tuyên xử lý vật chứng vụ án; tuyên miễn án phí hình sự sơ thẩm, miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo Phan Văn H; tuyên quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm đối với bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
Trong hạn luật định ngày 21 tháng 11 năm 2018, bị cáo Phan Văn H nộp đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 21 tháng 11 năm 2018 người bị hại anh Hoàng Minh T nộp đơn kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Phan Văn H; yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại cho người bị hại theo quy định của pháp luật.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo Phan Văn H nộp số tiền bồi thường 5.572.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới theo Biên lai thu tiền số AA/2015 0001827 ngày 11 tháng 01 năm 2019.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phan Văn H khai và thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như Cáo trạng truy tố và xét xử của Bản án sơ thẩm, giữ nguyên kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Chấp nhận bồi thường thêm cho bị hại 15.000.000 đồng tại phiên toà và đề nghị bị hại, Hội đồng xét xử cho bị cáo bồi thường thêm thiệt hại theo quy định của pháp luật và khả năng của bị cáo; xin bị hại rút yêu cầu kháng cáo tăng hình phạt đối với bị cáo.
Bị hại Hoàng Minh T không nhận số tiền 15.000.000 đồng do bị cáo giao nộp tại phiên toà và giữ nguyên kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo, xử phạt bị cáo Phan Văn H mức án thấp nhất phải 10 năm tù; yêu cầu tăng bồi thường cho bị hại vì bị hại mất thu nhập hoàn toàn và buộc bị cáo phải cấp dưỡng để nuôi bị hại vì hiện tại bị hại không tự lao động nuôi sống bản thân.
Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Phan Văn H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nguyên nhân phạm tội của bị cáo do bức xúc thiếu kiếm chế khi bị bị hại là người nhỏ tuổi có lời nói xúc phạm mình, trước khi phạm tội giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì, cùng là thợ xây cùng đoàn với nhau, gia cảnh hiện tại của bị cáo có nhiều khó khăn. Theo tình tiết giảm nhẹ bị cáo nộp đủ và nộp thêm tiền bồi thường ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo 12 tháng tù; xem xét buộc bị cáo bồi thường thêm cho bị hại theo hoàn cảnh hiện tại của bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin được giảm án của bị cáo và quan điểm đề nghị của người bào chữa để giảm án cho bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại để buộc bị cáo bồi thường thêm cho bị hại khoản tổn thất tình thần bằng 3 tháng lương tối thiểu và bồi thường tiền mất thu nhập của bị hại, tiền bồi dưỡng đối với bị hại theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Theo lời khai nhận tội của bị cáo Phan Văn H tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án như lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, lời khai của người bị hại, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, Kết luận giám định Pháp y về thương tích số 17/TgT ngày 13 tháng 4 năm 2018 của Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y Sở Y tế tỉnh Quảng Bình..., Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2018/HS-ST ngày 09 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới quyết định tuyên bố bị cáo Phan Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[1] Xét kháng cáo của bị cáo Phan Văn H xin được giảm nhẹ hình phạt; kháng cáo của bị hại Hoàng Minh T yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Phan Văn H, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo Phan Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích” với hành vi dùng xẻng đánh vào đầu bị hại Hoàng Minh T gây thương tích 73% nên bị truy tố và xét xử theo điểm d khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự 2015) có hình phạt tù từ 07 năm đến 14 năm. Bị cáo phạm tội chỉ vì mâu thuẫn nhỏ từ lời nói của bị hại mà bị cáo đã không kiềm chế cho rằng mình bị xúc phạm nên đã sử dụng xẻng là hung khí nguy hiểm đánh trúng vào vùng đầu gây thương tích nặng cho bị hại làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tinh thần đối với người bị hại, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Theo tính chất, mức độ vụ án, thương tích mà bị cáo đã gây ra cho bị hại, Bản án sơ thẩm xử áp dụng điểm d khoản 4 Điều 134, các tình tiết giảm nhẹ theo các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phan Văn H mức án 6 năm 6 tháng tù là đã xử phạt nhẹ đối với bị cáo.
Theo tình tiết sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nộp đủ tiền bồi thường theo quyết định của Bản án sơ thẩm, tại phiên toà phúc thẩm bị cáo xin nộp thêm 15.000.000 đồng, tuy bị hại Hoàng Minh T không nhận số tiền này nhưng vẫn được xem là bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ để không chấp nhận phần kháng cáo của bị hại yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Phan Văn H. Theo đó cũng không chấp nhận kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phan Văn H và giữ y hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với bị cáo Phan Văn H.
[2] Xét phần kháng cáo của người bị hại Hoàng Minh T yêu cầu buộc bị cáo
Phan Văn H tăng mức bồi thường thiệt hại cho người bị hại theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử thấy: Bản án sơ thẩm áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; các Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc Phan Văn H bồi thường cho bị hại Hoàng Minh T số tiền 102.552.747 đồng, khấu trừ số tiền 97.000.000 đồng đã bồi thường, còn phải bồi thường tiếp 5.552.747 đồng là chỉ mới xem xét các thiệt hại thực tế trong thời gian điều trị và khoản tiền tổn thất tinh thần. Chưa xem xét khoản thu nhập của người bị hại bị mất do hiện tại không lao động được và chưa buộc bị cáo phải bồi dưỡng cho bị hại vì hiện tại bị hại không tự lao động để nuôi sống bản thân mình theo quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự.
Theo kháng cáo của bị hại, Hội đồng xét xử đã hoà giải để bị cáo và bị hại tự thương lượng bồi thường nhưng không có kết quả nên Hội đồng xét xử phải ấn định buộc bị cáo bồi thường thêm cho bị hại khoản thu nhập bị mất sau khi điều trị thương tích ra viện và buộc bị cáo phải bồi dưỡng cho bị hại một khoản tiền vì hiện tại bị hại không tự lao động để nuôi sống bản thân mình với số tiền tổng cộng 100.000.000 đồng.
Số tiền bị cáo Phan Văn H đã nộp ở Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới sau khi xét xử sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền bị cáo còn phải bồi thường cho bị hại theo quyết định của Bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm, án phí dân sự phúc thẩm đối với bị cáo Phan Văn H.
Phần kháng cáo yêu cầu tăng bồi thường của bị hại được chấp nhận, Bị cáo Phan Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt không được chấp nhận, theo quy định thì bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm và án phí dân sự phúc thẩm. Xét bị cáo thuộc đối tượng là hộ cận nghèo nên Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự phúc thẩm và miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điểm a, b khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 2 Điều 357; khoản 2 các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[1] Không chấp nhận phần kháng cáo của bị hại yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Phan Văn H và kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phan Văn H, giữ y phần hình phạt của Bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm d khoản 4 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Phan Văn H. Xử phạt bị cáo Phan Văn H 06 năm 06 tháng tù (sáu năm sáu tháng) về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
2. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại Hoàng Minh T để sửa phần dân sự của Bản án sơ thẩm.
Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; các Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự năm 2015, buộc Phan Văn H bồi thường thêm cho bị hại Hoàng Minh T số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) về khoản thu nhập của bị hại bị mất sau khi điều trị thương tích ra viện và bồi dưỡng cho bị hại vì hiện tại bị hại không tự lao động để nuôi sống bản thân.
Số tiền bồi thường 5.572.000 đồng bị cáo nộp bồi thường tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới theo Biên lai thu tiền số AA/2015 0001827 ngày 11 tháng 01 năm 2019 được khấu trừ vào số tiền bị cáo phải bồi thường theo quyết định của Bản án sơ thẩm.
Về nghĩa vụ chậm thi hành án:
“Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015”.
Về hướng dẫn thi hành án dân sự:
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự”.
3. Bị cáo Phan Văn H được miễn nộp Án phí hình sự phúc thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (29 tháng 01 năm 2019).
Bản án 08/2019/HS-PT ngày 29/01/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 08/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về