TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 08/2018/HNGĐ-PT NGÀY 08/08/2018 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN
Ngày 08 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 12/2018/TLPT-DS ngày 05 tháng 7 năm 2018 về Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con Do bản án dân sự sơ thẩm số 156/2018/HNGĐ-ST ngày 31/05/2018 của Toà án nhân dân huyện MC bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 10/2018/QĐPT-DS ngày 09 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị B1. Sinh năm: 1970
Địa chỉ: Tiểu khu NN, thị trấn NT, huyện MC, tỉnh Sơn La (Có mặt)
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Đ. Sinh năm: 1967
Địa chỉ: Tiểu khu NN, thị trấn NT, huyện MC, tỉnh Sơn La (Có mặt)
3. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn Đ - Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai tại phiên tòa sơ thẩm:
Phía nguyên đơn chị Nguyễn Thị B1 trình bày:
Ngày 29/9/2017, chị B1 và anh Đ ly hôn. Về con chung, hai bên thỏa thuận giao cháu Nguyễn Xuân B, sinh ngày 23/11/2011 cho anh Nguyễn Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Tạm hoãn việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị Nguyễn Thị B1 do anh Đ không yêu cầu. Không ai được cản trở quyền trông nom, thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau ly hôn.
Tuy nhiên sau khi ly hôn, anh Đ không trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng giáo dục cháu B, anh đã gửi cháu B cho em anh Đ ở tỉnh Hải Dương nuôi, anh Đ còn ngăn cấm không cho mẹ con chị được gặp nhau cũng như thăm hỏi, chăm sóc cháu B. Chị B1 thấy việc anh Đ gửi con cho người khác nuôi là không đảm bảo. Do vậy chị có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện MC giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Xuân B đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi và không yêu cầu anh Nguyễn Văn Đ phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Phía bị đơn anh Nguyễn Văn Đ trình bày:
Chị Nguyễn Thị B1 muốn thay đổi quyền nuôi, anh không đồng ý vì chị B1 không có công ăn việc làm và nơi ở ổn định, do vậy không đảm bảo cuộc sống của cháu Nguyễn Xuân B. Nghề nghiệp hiện nay của anh là công nhân, mức thu nhập bình quân một tháng là 5.000.000đ đến 6.000.000đ/ tháng.
Tại bản án số 156/2018/HNGĐ-ST ngày 31/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện MC quyết định:
Căn cứ vào Điều 81, 82, 83, khoản 1 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình
Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị B1 về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Xử: Giao cháu Nguyễn Xuân B - Sinh ngày 23/11/2011 cho chị Nguyễn Thị B1 trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi.
Tạm hoãn việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Nguyễn Văn Đ do chị Nguyễn Thị B1 không yêu cầu.
Không ai được cản trở quyền trông nom, thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/6/2018, anh Nguyễn Văn Đ có đơn kháng cáo với nội dung không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quan hệ pháp luật:
Ngày 29/9/2017, chị Nguyễn Thị B1 và anh Nguyễn Văn Đ ly hôn, hai bên thỏa thuận việc giao con chung là cháu Nguyễn Xuân B cho anh Nguyễn Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành. Nay chị Nguyễn Thị B1 làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn là có căn cứ, đúng pháp luật
[2] Xét nội dung kháng cáo của anh Nguyễn Văn Đ không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm số 156/2018/HNGĐ-ST ngày 31 tháng 5 năm 2018 của Toà án nhân dân huyện MC, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Có căn cứ xác định sau khi ly hôn, anh Nguyễn Văn Đ không trực tiếp chăm sóc cháu Nguyễn Xuân B mà gửi cháu về quê cho anh em trong gia đình nuôi hộ, không đảm bảo đầy đủ việc chăm sóc mọi mặt từ đó ảnh hưởng đến tâm sinh lý của cháu trong khi cháu Nguyễn Xuân B còn quá nhỏ, rất cần được sự chăm sóc của bố đẻ hoặc mẹ đẻ. Chị Nguyễn Thị B1 hiện có thu nhập ổn định, được nơi chị đang làm việc bố trí nơi ở, đủ để đảm bảo cuộc sống của 2 mẹ con. Cấp sơ thẩm giao cháu Nguyễn Xuân B cho chị Nguyễn Thị B1 chăm sóc là phù hợp. Do đó, kháng cáo của anh Nguyễn Văn Đ là không có căn cứ.
Từ những phân tích nêu trên, không chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Văn Đ, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Án phí: Anh Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:
1. Không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn Nguyễn Văn Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 156/2018/HNGĐ-ST ngày 31/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện MC như sau:
Căn cứ vào Điều 81, 82, 83, khoản 1 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình
Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị B1 về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Xử: Giao cháu Nguyễn Xuân B - Sinh ngày 23/11/2011 cho chị Nguyễn Thị B1 trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi.
Tạm hoãn việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Nguyễn Văn Đ do chị Nguyễn Thị B1 không yêu cầu.
Không ai được cản trở quyền trông nom, thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.
2. Án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vềmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị đơn Nguyễn Văn Đ phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (27/7/2018).
Bản án 08/2018/HNGĐ-PT ngày 08/08/2018 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn
Số hiệu: | 08/2018/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sơn La |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về