Bản án 08/2017/HNGĐ-ST ngày 25/08/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT TIÊN, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 08/2017/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cát Tiên tỉnh Lâm Đồng. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 45/2017/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2017 về tranh chấp “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2017/QĐXXST ngày 09 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị A - Sinh năm 1980

Địa chỉ: TDP a - TT b – huyện b – Lâm Đồng.

Bị đơn: Ông Cao Văn B – Sinh năm 1981. Địa chỉ: TDP a - TT b – b – Lâm Đồng.

Các đương sự dều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 4 năm 2017, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim A trình bày:

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị A kết hôn với ông Cao Văn B, tại Ủy ban nhân dân xã Phước Thiên, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai vào ngày 15/3/2002 (giấy đăng ký số 14/2002). Trong thời gian sống chung vợ chồng thường xuyên sảy ra nhiều mâu thuẫn, cuộc sống chung không hạnh phúc, ông B có người phụ nữ khác nhưng lại nghi ngờ bà nên thường xuyên đánh đập, bạo hành bà, bà nhiều lần mời chính quyền địa phương đến giải quyết nhưng ông B không thay đổi, cuộc sống gia đình luôn trong tình trạng căng thẳng bà không chịu nổi nên bỏ về mẹ đẻ sống cùng hai con, vợ chồng không còn sống chung. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn không thể nào tiếp tục chung sống nên bà xin được ly hôn với ông B.

Về con chung: Có 02 người con chung Cao Thị C, sinh ngày 05/9/2003 và Cao Văn P - sinh ngày 06/3/2013 hiện nay các con đang sống với bà, bà xin được nuôi hai con, về cấp dưỡng không yêu cầu ông B cấp dưỡng.

Về tài sản chung và công nợ: Bà A trình bày tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết.

Tại các văn bản bị đơn ông Cao Văn B trình bày: Về hôn nhân trong thời gian chung sống vợ chồng thường sảy ra mâu thuẫn nhưng không lớn, có một vài lần vợ chồng có lời qua tiếng lại ông không kìm chế có vài lần đánh vợ, việc vợ xin ly hôn ông không đồng ý ly hôn vì muốn vợ chồng đoàn tụ nuôi con.

Về con chung: Có 02 người con chung Cao Thị C, sinh ngày 05/9/2003 và Cao Văn P, sinh ngày 06/3/2013, ông không đồng ý ly hôn nên không đồng ý giao con bà A nuôi dưỡng; Về tài sản chung, nợ chung ông trình bày tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết

Tại phiên tòa: Bà Nguyễn Thị A giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin được ly hôn với ông Cao Văn B, bà cho rằng cuộc sống hôn nhân đang mâu thuẫn trầm trọng, ông B thường xuyên đe dọa đến tính mạng của bà, về con chung bà xin được nuôi hai con chung, về cấp dưỡng không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Ông Cao Văn B trình bày: Ông không đồng ý ly hôn, ông cho rằng cuộc sống hôn nhân giữa ông và bà A hiện không hạnh phúc nếu bà A thay đổi thì có thể, về con chung ông đề nghị nuôi hai con chung.

Ý kiến phát biểu kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghỉ nghị án như sau: Thực hiện đúng trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định.

Về nội dung: Bà A yêu cầu xin ly hôn với ông B, trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa bà A và ông B thừa nhận vợ chồng trong thời gian sống chung có nhiều mâu thuẫn, không hạnh phúc. Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A cho bà A được ly hôn với ông B, về con chung đề nghị giao 02 người con chung cho bà A nuôi dưỡng, về cấp dưỡng bà Akhông yêu cầu nên không đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Hội đồng xét xử nhận định:

 [2] Về hôn nhân: Hôn nhân của bà Nguyễn Thị A và Cao Văn B là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do không tôn trọng lẫn nhau dẫn đến cuộc sống chung không hạnh phúc, ông B có hành vi đánh bà A nhiều lần, mỗi khi gia đình mâu thuẫn do ông không kìm chế được. Cụ thể ông B bị công an thị trấn Cát Tiên xử phạt về hành vi bạo lục gia đình, bà A bỏ về mẹ đẻ sống cùng hai con, hôn nhân lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hiện nay cả hai không còn sống chung, nay bà A và ông B xác định cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Do đó có căn cứ chấp nhận đơn xin ly hôn của bà A cho bà A ly hôn với ông B theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

 [3] Về con chung: Có 02 người con chung Cao Thị C, sinh ngày 05/9/2003 và Cao Văn P, sinh ngày 06/3/2013 hiện nay các con sống với bà A. Bà A có nguyện vọng được nuôi hai con, cháu Cao Thị C có nguyện vọng được sống với mẹ, cháu Cao Văn P còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ, ông B yêu cầu nuôi 02 con, tuy nhiên ông B nóng tính, có hành vi bạo lực gia đình nên việc nuôi con không đảm bảo, hiện nay bà A đang nuôi các con đảm bảo, có công viện ổn định. Cần chấp nhận giao hai con chung cho bà A nuôi dưỡng.

 [4] Về cấp dưỡng: Bà A không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, đây là yêu cầu tự nguyện nên cần chấp nhận.

 [5] Về tài sản chung: Bà A và ông B trình bày tự thỏa thuận không yêu cầu tòa án giải quyết nên không xem xét.

 [6] Về Nợ chung: Bà A và ông B trình bày tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

 [7] Về án phí: Bà Nguyễn Thị A là nguyên đơn nên phải chịu án phí HNGĐ sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 147, 150 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017.

Về hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Nguyễn Thị A, cho bà Nguyễn Thị A ly hôn với ông Cao Văn B.

Về nuôi con chung: Giao 02 con chung Cao Thị C, sinh ngày 05/9/2003 và Cao Văn P, sinh ngày 06/3/2013 cho bà Nguyễn Thị A nuôi dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng theo quy định luật hôn nhân và gia đình.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị A phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí HNGĐ – ST, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai thu số AA/2013/0005406 ngày 29 tháng 5 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2017/HNGĐ-ST ngày 25/08/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:08/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cát Tiên - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về