Bản án 07/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 338/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 342/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:

Nho Khánh H, sinh năm 1995, tại tỉnh Hải Dương; Hộ khẩu thường trú: Thôn D, xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương; chỗ ở trước khi bị bắt: Ấp S, xã T, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Nhân viên bán hàng; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; cha tên Nho Quang V, sinh năm 1964 và mẹ tên Đỗ Thị H, sinh năm 1968; gia đình có 02 (hai) chị em, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 11/10/2020, đến ngày 30/11/2020, bị cáo được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh, hiện đang cư trú tại thôn D, xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương (bị cáo có mặt).

- Bị hại: Bà Đặng Thị Như U, sinh năm 1978, địa chỉ: 183 đường L, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Hồng H, sinh năm 1978; địa chỉ: 183 đường L, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 11/10/2020, Nho Khánh H đến quán cơm tại địa chỉ 183 đường L, phường T, thành phố V để ăn cơm. Sau khi ăn xong, H đi vệ sinh thì thấy một chiếc túi xách ở bàn cạnh nhà vệ sinh của chị Đặng Thị Như U, sinh năm 1978, địa chỉ: 14/57 đường K, Phường B, thành phố V (chủ quán) không có ai trông coi. H liền nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên mở túi ra thì thấy có một cọc tiền cuộn tròn được cột bằng sợi dây thun, bên ngoài được kẹp vài tờ vé số. H lấy cọc tiền trên cho vào túi quần, đi ra ngoài. Chị U thấy H đi vệ sinh lâu nên nghi ngờ, liền kiểm tra thì thấy mất số tiền trên để trong túi xách nên đã gọi H lại. Khi bị phát hiện, H vội ném cọc tiền trên vào thau rửa bát của quán cơm. Chị U yêu cầu H ngồi lại tại quán và gọi chồng là anh Nguyễn Hồng H về và giao đối tượng H cùng tang vật cho Công an phường T xử lý.

Tài sản trộm cắp được thu giữ bao gồm số tiền 6.961.000đồng (Sáu triệu chín trăm sáu mươi mốt nghìn đồng), 03 tờ vé số bao gồm các số 526948 của xổ số kiến thiết Đà Lạt; 699005, 787684 của xổ số kiến thiết Tiền Giang cùng ngày 11/10/2020.

Tại Cơ quan Điều tra, H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. (Bút lục điều tra từ số 21 đến số 39).

- Cơ quan điều tra đã thu giữ vật chứng là số tiền 6.961.000đồng (Sáu triệu chín trăm sáu mươi mốt nghìn đồng), 03 (ba) tờ vé số bao gồm các số 526948 của xổ số kiến thiết Đà Lạt; 699005, 787684 của xổ số kiến thiết Tiền Giang cùng ngày 11/10/2020 và đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị Đặng Thị Như U toàn bộ số tiền và tài sản trên.

+ Về trách nhiệm dân sự: Chị Đặng Thị Như U đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường (Bút lục điều tra từ số 15 đến số 19).

Tại bản cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 10/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố Nho Khánh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng nội dung truy tố về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo Nho Khánh H về tội “Trộm cắp tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, h, S khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nho Khánh H từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng.

về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Đã xử lý xong đề xuất không xem xét.

Bị cáo Nho Khánh H đã khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Khi nói lời sau cùng, bị cáo thể hiện ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đứng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị hại bà Đặng Thị Như U và người có quyền lợi, nghĩa vụ hên quan ông Nguyễn Hồng H có đơn xin giải quyết vắng mặt nhưng đã có lời khai tại cơ quan điều tra; bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V tham gia phiên tòa không yêu cầu hoãn phiên tòa nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 10 giờ ngày 11/10/2020, tại địa chỉ: 183 Lê Lợi, phường T, thành phố V, Nho Khánh H đã có hành vi trộm cắp số tiền 6.961.000 đồng (Sáu triệu chín trăm sáu mươi mốt nghìn đồng) và 03 tờ vé số bao gồm các số 526948 xổ số kiến thiết Đà Lạt; 699005, 787684 ngày 11/10/2020 xổ số kiến thiết Tiền Giang của chị Đặng Thị Như U. Hành vi bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là thanh niên đã trưởng thành biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị nhà nước xử lý nghiêm minh nhưng do lười lao động, tham lam lợi ích vật chất nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích có tiền tiêu xài cá nhân. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, tuyên mức hình phạt phù hợp, tương xứng với hành vi, tính chất, mức độ phạm tội nhằm cải tạo, giáo dục riêng bị cáo, đồng thời bảo đảm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

4.1] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại gì. Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại cho bị cáo. Vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, h, S khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, là người đã trưởng thành, có khả năng tự cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, căn cứ các quy định pháp luật về án treo, Hội đồng xét xử nhận thấy chỉ cần tuyên phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc mà không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống bình thường của xã hội cũng đủ răn đe, để bị cáo cải tạo trở thành công dân tốt cho xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bà Đặng Thị Như U đã nhận lại tài sản gồm số tiền 6.961.000đ (Sáu triệu chín trăm sáu mươi mốt nghìn đồng) và 03 (ba) tờ vé số bao gồm các số 526948 của xổ số kiến thiết Đà Lạt; 699005, 787684 của xổ số kiến thiết Tiền Giang cùng ngày 11/10/2020 và không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nho Khánh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, h, S khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nho Khánh H 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện K, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người hưởng án treo vắng mặt nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 93 của Luật thi hành án Hình sự; nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo và tổng hợp với hình phạt của Bản án mới theo quy định của Bộ luật Hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không xem xét.

3. Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong nên không xem xét.

4. Án phí: Bị cáo Nho Khánh H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền kháng cáo vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo nêu trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về