Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 173/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: anh Bùi Văn K, sinh năm 1985. Địa chỉ: thôn V, xã V, huyện V, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

2. Bị đơn: chị Mai Thị M, sinh năm 1984. Địa chỉ: thôn V, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 17/10/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Bùi Văn K trình bày: anh và chị Mai Thị M tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 11/9/2004 tại UBND xã H (nay là xã H), huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng bất đồng quan điểm, không hòa hợp dẫn đến tình cảm vợ chồng trở nên trầm trọng. Nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2007 đến nay. Thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Mai Thị M.

Về con chung: anh Bùi Văn K khai, vợ chồng có một con chung tên là Bùi Thị Khánh H, sinh ngày 18/01/2006. Hiện nay, cháu H đang ở với chị M, anh đề nghị giao cháu H cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi.

Về tài sản: anh Bùi Văn K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập chị Mai Thị M đến Toà án để viết bản khai nhưng chị M đã không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của chị M.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Bùi Văn K đề nghị Toà án giải quyết được ly hôn chị Mai Thị M và đề nghị giao cháu Bùi Thị Khánh H cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh K tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) là phù hợp với quy định tại các điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh K.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: chị Mai Thị M đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để đến Tòa án tham gia phiên hòa giải nhưng không có mặt mà không có lý do nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Chị M cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, anh Bùi Văn K vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh K và chị M là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: anh Bùi Văn K và chị Mai Thị M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Theo anh K trình bày, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc từ khi kết hôn đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, không hòa hợp dẫn đến ly thân từ năm 2007 đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Theo biên bản xác minh ngày 07/12/2020 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H, vợ chồng anh K, chị M sau khi kết hôn, chung sống đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm và không hòa hợp. Từ năm 2007 cho đến nay vợ chồng sống ly thân. Như vậy, cuộc sống vợ chồng giữa anh K và chị M đã thật sự trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho anh K được ly hôn với chị M là phù hợp.

[3]. Về con chung: anh Bùi Văn K khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Bùi Thị Khánh H, sinh ngày 18/01/2006. Anh K cũng xuất trình cho Tòa án trích lục khai sinh, trong đó xác định cháu H là con chung của anh K và chị M. Mặt khác, cháu H được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định cháu H là con chung của anh K và chị M. Mặc dù không lấy được ý kiến về nguyện vọng của cháu H nhưng từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu H do chị M nuôi dưỡng. Để tránh sự xáo trộn về tâm sinh lý, học tập của cháu nên giao cháu H cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của anh K về việc cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi.

[4]. Về tài sản: anh Bùi Văn K không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: anh Bùi Văn K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, 83, khoản 1 Điều 88 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6 và khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: cho ly hôn giữa anh Bùi Văn K và chi Mai Thị M.

2. Về con chung: công nhận cháu Bùi Thị Khánh H, sinh ngày 18/01/2006 là con chung của anh K và chị M. Giao cháu H cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Anh K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng), thời hạn cấp dưỡng tính từ tháng 02/2021 cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi. Anh K có quyền đi lại, thăm nom con chung không ai được cản trở.

Anh K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh K không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị M.

3. Về án phí: anh Bùi Văn K phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng định kỳ nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh K đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009231 ngày 28/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Anh K còn phải nộp tiếp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: anh Bùi Văn K và chị Mai Thị M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về