Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 175/2020/TLST- HNGĐ ngày 13/10/2020, về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2020/QĐXX-ST, ngày 31/12/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị; Thái Thị N, sinh năm 1994. Địa chỉ: Xóm 14, xã NV, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh; Nguyễn Bá N, sinh năm 1976. Địa chỉ: Xóm 8, xã CV, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa 3. Người làm chứng: Bà; Nguyễn Thị L, sinh năm 1949. Địa chỉ: Xóm 8, xã CV, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa, nguyên đơn chị Thái Thị N, trình bày như sau:

- Về hôn nhân: Chị Thái Thị N kết hôn với anh Nguyễn Bá N vào ngày 03/7/2014 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã CV, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sinh sống ở tỉnh Bình Dương, do hai vợ chồng làm ăn trong đó, chị làm công nhân công ty, còn anh Nguyễn Bá N đi làm Lơ xe, nên quen biết nhau và yêu thương nhau. Sau khi cưới hai người có về sống ở xã CV một thời gian, rồi vào miền nam làm ăn sinh sống.

Vợ chồng sống hạnh phúc, đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, nên đã sống ly thân với nhau, chị đi làm công nhân ở tỉnh Long An, còn anh Nguyễn Bá N thì quay về xã CV, huyện Thanh Chương sinh sống; đầu năm 2018 cả hai người có về sống ở nhà nội ở xã CV một thời gian lại mâu thuẫn, nên chị đã về quê ngoại ở huyện Nghi Lộc sinh sống ly thân từ đó đến nay luôn. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, nên xin được ly hôn anh Nguyễn Bá N.

- Về trách nhiệm nuôi con: Vợ chồng có 01 con chung với nhau, tên là Thái Nguyễn Yến N, sinh ngày 09/01/2013, do lúc đó hai bên quen nhau và lấy nhau, chưa kịp đi đăng ký kết hôn, nên sau khi sinh con xong thì mới về quê chồng đăng ký kết hôn. Ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh Nguyễn Bá N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản: Chị Thái Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài các ý kiến trên chị không có thêm bất cứ ý kiến hay yêu cầu gì thêm. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã triệu tập nhiều lần để công khai chứng cứ và hòa giải, song anh Nguyễn Bá N vẫn vắng mặt.

Người làm chứng là bà Nguyễn Thị L trình bày như sau: Bà là mẹ đẻ của anh Nguyễn Bá N, hiện cư trú tại xóm 8, xã CV, huyện Thanh Chương; hai người kết hôn ngày tháng năm nào thì bà không nhớ rõ; nay chị Thái Thị N làm đơn xin ly hôn thì ý kiến cá nhân bà nhất trí để hai người ly hôn; về con thì vợ chồng có 01 con chung với nhau tên là Thái Nguyễn Yến N, sinh ngày 09/01/2013, nay chị Thái Thị N ly hôn với anh Nguyễn Bá N, thì bà muốn chị Thái Thị N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về mặt thủ tục tố tụng. Còn về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Thái Thị N được ly hôn anh Nguyễn Bá N; về con giao cho chị Thái Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cháu Thái Nguyễn Yến N và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Bá N; còn tài sản không có yêu cầu nên không xem xét. Chị Thái Thị N phải chịu án phí ly hôn theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập bị đơn nhiều lần để công khai chứng cứ và hòa giải, song anh Nguyễn Bá N vẫn vắng mặt, cho nên không thể thực hiện việc hòa giải và công khai chứng cứ. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn đã được tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét hợp lệ nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục vắng mặt; cho nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử bình thường theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Cuộc hôn nhân giữa chị Thái Thị N và anh Nguyễn Bá N được xác lập trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 03/7/2014 tại UBND xã CV, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn hai vợ chồng lúc đầu sống và làm ăn tại Miền Nam một thời gian, sau đó về quê nội sống ở xã CV, huyện Thanh Chương. Tình cảm vợ chồng sau khi cưới bình thường, đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, nên chị Thái Thị N đã về bên ngoại ở xã NV, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An và sống ly thân từ đó đến nay. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh chị Thái Thị N vẫn nhất quyết xin ly hôn; còn anh Nguyễn Bá N thì vắng mặt và không có ý kiến gì. Điều đó chứng tỏ tình trạng vợ chồng đã thực sự trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, việc xin ly hôn của chị Thái Thị N, là hoàn toàn phù hợp với Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận cho chị Thái Thị N được ly hôn anh Nguyễn Bá N.

[3] Về trách nhiệm nuôi con: Vợ chồng có 01 con chung với nhau tên là Thái Nguyễn Yến N, sinh ngày 09/01/2013. Nay chị Thái Thị N có nguyện vọng được nuôi con; còn anh Nguyễn Bá N không có ý kiến gì; nên cần giao cho chị Thái Thị N được trực tiếp nuôi con và tạm hoãn cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Bá N; là hoàn toàn phù với Điều 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình.

4] Về chia tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết về phần tài sản.

[5] Xét ý kiến của Kiểm sát viên: Các ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị Thái Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên ;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 51; 56;81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình. Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Thái Thị N được ly hôn anh Nguyễn Bá N.

2. Về trách nhiệm nuôi con: Giao cháu Thái Nguyễn Yến N, sinh ngày 09/01/2013, cho chị Thái Thị N trực tiếp nuôi dưỡng.

Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Bá N.

Anh Nguyễn Bá N có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản chung: Tòa án không xem xét.

4. Trường hợp bản án, được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về án phí: Chị Thái Thị N: phải chịu 300 000 ( Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí xin ly hôn.  Chị Thái Thị N được trừ đi 300 000 (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai 0004490 ngày 13/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

6. Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về