Bản án 84/HNGĐ-ST ngày 26/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 84/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 277/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2019 về việc Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2019/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị D, sinh năm 1988. (Xin xử vắng mặt)

Bị đơn: Anh Phạm Đăng Â, sinh năm 1984. (Vắng mặt lần thứ 2)

Đều trú tại: thôn H, xã P, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án chị Vũ Thị D trình bày: Chị và anh Phạm Đăng  tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2006 tại UBND xã P, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn anh chị sinh sống và làm ăn tại địa phương, vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian, sau đó thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do quan niệm sống và cách nhìn nhận cuộc sống không phù hợp. Vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi, không ai quan tâm gì đến nhau nữa, nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, có chung sống với nhau cũng không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Â. Về con chung: Chị xác định chị và anh  có 02 con chung là Phạm Thành L1, sinh ngày 16/4/2012 và Phạm Thị Hoài L2, sinh ngày 26/10/2006, hiện đang ở cùng chị, chị đề nghị được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu anh  phải cấp dưỡng nuôi con cho chị. Về tài sản chung: Chị xác định chị và anh  không có tài sản chung, không có nợ chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án anh Phạm Đăng  không đến làm việc, mẹ đẻ anh  là bà Nguyễn Thị B xác nhận khoảng 02 năm nay anh  và chị D có phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân mỗi người một nơi, bà đã nhận được các văn bản của Tòa án và thông báo cho anh  biết Tòa án giải quyết vụ án, nhưng do anh đi làm ăn không đến Tòa án làm việc được, quan điểm của anh  là muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng nếu chị D cương quyết xin ly hôn anh cũng đồng ý.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử và nghị án đều đúng quy định của pháp luật, việc bị đơn đã được triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do là vi phạm nghĩa vụ của đương sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản Điều 51; Điều 56; Điều 81, Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị Phạm Thị D được ly hôn anh Phạm Đăng Â. Về con chung: Giao 02 con là Phạm Thành L1, sinh ngày 16/4/2012 và Phạm Thị Hoài L2, sinh ngày 26/10/2006 cho chị D được trực tiếp nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị D không yêu cầu anh  cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án và đơn xin xử vắng mặt, chị D vẫn giữ nguyên yêu cầu trên, không thay đổi bổ sung gì. Bị đơn là anh  đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt không đến tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào lời khai của bà Nguyễn Thị B và biên bản xác minh tại chính quyền địa phương có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt vì vậy căn cứ Điều 228, Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị D và anh  là hợp pháp, trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nhưng cả hai đều không có biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình dẫn đến mâu thuẫn trở nên trầm trọng, hiện nay vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau nữa. Như vậy, có căn cứ xác định vợ chồng chị D và anh  đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị D được ly hôn anh Â.

[3]. Về con chung: Chị D và anh  có 02 con chung là Phạm Thành L1, sinh ngày 16/4/2012 và Phạm Thị Hoài L2, sinh ngày 26/10/2006, hiện nay con chung đang ở với chị D, chị D đề nghị được trực tiếp nuôi con chung và 02 con chung đều có đơn xin ở với mẹ. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết giao con chung cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, chị D không yêu cầu anh  cấp dưỡng nuôi con là sự tự nguyện, cần chấp nhận.

[4]. Về tài sản chung: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Chị D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016 về Án phí, Lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị D được ly hôn anh Phạm Đăng Â.

2. Về con chung: Giao con chung là Phạm Thành L1, sinh ngày 16/4/2012 và Phạm Thị Hoài L2, sinh ngày 26/10/2006 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị D không yêu cầu anh  cấp dưỡng nuôi con. Anh  có quyền đi lại thăm nom, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con được đặt ra giải quyết khi có yêu cầu.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chuyển số tiền 300.000 đồng chị D đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai số 0001995 ngày 04/10/2019 của Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí, chị D đã nộp xong án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị D và anh Phạm Đăng A có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/HNGĐ-ST ngày 26/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:84/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về