Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 03 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 220/2020/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 220/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Khổng Thị D, sinh năm 1990; trú tại: Thôn R, xã X, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt);

- Bị đơn: Anh Hoàng Anh V, sinh năm 1985; trú tại: Thôn R, xã X, huyệnL, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 05/10/2020 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Khổng Thị D trình bày:

Chị kết hôn với anh Hoàng Anh V ngày 05/8/2008 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện L trên cơ sở tự nguyện. Sau khi cưới, vợ chồng chị sống ở nhà bố mẹ đẻ anh V tại thôn R, xã X, huyện L. Ban đầu vợ chồng sống hòa thuận, đến 07/02/2017 bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, anh V đánh đập chị và thường chơi lô đề cờ bạc nên từ đó tình cảm vợ chồng lạnh nhạt. Đến ngày 17/02/2017 chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, anh V không hỏi han, quan tâm gì đến mẹ con chị. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn cho chị với anh V.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Hoàng Thị Kim N, sinh ngày 11/4/2009, hiện nay cháu đang ở cùng chị, ly hôn chị đề nghị được nuôi cháu N, không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, về tài sản riêng, công nợ, công sức đóng góp: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Hoàng Anh V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều không có mặt nên Tòa án không tiến hành lấy lời khai và hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch thụ lý vụ án hôn nhân gia đình về việc ly hôn là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Từ khi thu lý vụ án đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc thông báo thụ lý vụ án, thu thập tài liệu, chứng cứ theo đúng quy định pháp luật. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi khai mạc phiên toà đến khi nghị án, đảm bảo vô tư, khách quan, đúng quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D với anh V, giao cháu N cho chị D trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh V không phải cấp dương nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử, xét thấy:

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là chị Khổng Thị D đối với bị đơn là anh Hoàng Anh V. Vì vậy, quan hệ pháp luật trong vụ án là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật áp dụng giải quyết vụ án: Ngày 05/10/2020 chị Khổng Thị D có đơn xin ly hôn với anh Hoàng Anh V. Vì vậy pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án là Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về thủ tục tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng, Tòa án đã tiến hành làm việc với gia đình anh V thì hiện nay anh V đang đi làm ăn xa nhưng vẫn thường xuyên về và liên lạc với gia đình. Tòa án đã giao các văn bản giấy tờ cho gia đình nhận thay anh V tuy nhiên gia đình không nhận nên Tòa án tiến hành niêm yết thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng bị đơn vẫn không có mặt nên Tòa án không tiến hành lấy lời khai, hòa giải được. Tòa án đã tiến hành niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng bị đơn anh Hoàng Anh V vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4]. Về quan hệ hôn nhân: Trong quá trình giải quyết vụ án, thể hiện việc kết hôn giữa chị D và anh V trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện L. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh V là hợp pháp. Quá trình chung sống của vợ chồng, theo chị D thì ban đầu hai vợ chồng sống hòa thuận không có mâu thuẫn gì, nhưng đến tháng 07/02/2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn anh V đánh chị D và thường chơi lô đề cờ bạc nên đến 17/02/2017 chị D về nhà bố mẹ chị sống, hai vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Qua xác minh tại địa phương và gia đình anh V thì vợ chồng chị D anh V thường xảy ra cãi chửi nhau, đến tháng 02/2017 hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ đó cho đến nay. Việc hai vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau, không cùng chung sống nên không thể quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau và không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Đó là nguyên nhân của những mâu thuẫn vợ chồng nảy sinh và ngày càng trầm trọng không thể giải quyết được. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị D và anh V đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D.

[5]. Về con chung: Vợ chồng chị D, anh V có 01 con chung là cháu Hoàng Thị Kim N, sinh ngày 11/4/2009, hiện nay cháu N đang ở cùng chị D, ly hôn chị D đề nghị được nuôi cháu N. Anh V đi làm ăn xa thường xuyên không có ở nhà, để đảm bảo sự ổn định cuộc sống và sự chăm sóc, nuôi dưỡng đầy đủ cũng như quyền lợi của cháu Hoàng Thị Kim N cần thiết giao cháu N cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị D tự nguyện không yêu cầu anh V phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị nên cần chấp nhận.

[6]. Tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Chị D không đề nghị Tòa án giải quyết.

[7]. Về án phí: Chị Khổng Thị D phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH 

Căn cứ vào: Điều 51, 56, 57, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1, 4 Điều 147 của  Bộ  luật  tố  tụng  dân  sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:  

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Khổng Thị D với anh Hoàng Anh V.

Về con chung: Giao cho chị Khổng Thị D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Hoàng Thị Kim N, sinh ngày 11/4/2009. Anh V không phải đóng góp, cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D. Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau ly hôn.

Về án phí: Chị Khổng Thị D phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2017/0007880 ngày 07/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lập Thạch. Chị D đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

316
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về