Bản án 07/2020/HNGĐ-ST ngày 17/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 07/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/01/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 17 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 486/2019/TLST-HNGĐ, ngày 18 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 248/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 30 tháng 12 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 497/2020/QĐST, ngày 08 tháng 01 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị H – sinh năm 1994. Địa chỉ cư trú: xóm Đ, xã H, huyện Y, tỉnh N.

- Bị đơn: anh Trần Văn K – sinh năm 1989. Địa chỉ cư trú: xóm Đ, xã H, huyện Y, tỉnh N.

(chị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, anh K vắng mặt tại phiên tòa lần 2 không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn đề ngày 10/12/2019, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị H trình bày: chị và anh Trần Văn K kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn vào ngày 21 tháng 11 năm 2013, tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Y, tỉnh N. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 5 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, thường xuyên cãi vã khiến cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng và nặng nề. Vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2018 đến nay. Chị xác định hai bên không còn tình cảm với nhau nữa, mục đích hôn nhân không đạt được chị yêu cầu tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh K.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trần Hạo N - sinh ngày 03/8/2014 và Trần Minh N – sinh ngày 05/10/2016. Hiện nay con chung đang ở với chị, chị không muốn xáo trộn cuộc sống cũng như việc học tập của con chị đề nghị tòa án giữ nguyên hiện trạng và chị có nguyện vọng được nuôi cả 2 con không yêu cầu anh K cấp dưỡng tiền nuôi con;

- Về tài sản: chị Nguyễn Thị H không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn anh Trần Văn K quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh K vẫn không có mặt. Tòa án đã trực tiếp tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh K theo đúng quy định của pháp luật đồng thời lập biên bản tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho mẹ đẻ của anh K là ông Trần Văn L, ông L đã cam kết nhận trách nhiệm giao lại cho anh K nhưng anh K vẫn không có mặt, vì vậy Tòa án không tiến hành phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và cũng không lấy lời khai của anh K được. Tuy nhiên qua tài liệu do nguyên đơn cung cấp và qua biên bản xác minh tại xóm, xã thì tình trạng hôn nhân, con chung chưa thành niên giữa chị H và anh K đúng như chị H trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ. Hội đồng xét xử nhận định:

1.Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị H, anh K, yêu cầu anh, chị có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án nhưng anh K không có mặt. Vì vậy Toà án đã lập biên bản theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.

Ngày 30/12/2019, Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên toà và đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 08/01/2020 chị H có đơn xin vắng mặt, anh K vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Toà án tiếp tục tống đạt các văn bản tố tụng phiên toà lần thứ hai cho các bên đương sự tuy nhiên tại phiên toà hôm nay chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh K tiếp tục vắng mặt không có lý do. Như vậy, anh K đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 điều 228, khoản 2 điều 227 bộ luật TTDS tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn và nguyên đơn khi có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Về nội dung: - Quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị H, anh K là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế thì thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng những năm gần đây không được hạnh phúc, mâu thuẫn liên tục xảy ra và đã thực sự căng thẳng, trầm trọng, hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Trên cở sở đó xác định tình cảm vợ chồng không còn gắn kết với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị H yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh K là có căn cứ, cần chấp nhận.

- Quan hệ con chung: Quá trình giải quyết vụ án chị H có nguyện vọng yêu cầu Tòa án giữ nguyên hiện trạng về con chung bởi lẽ con chung hiện nay đang ở ổn định chị không muốn thay đổi. Chị đề nghị Tòa xem xét nguyện vọng.

Xét tình hình thực tế từ khi vợ chồng ly thân thì cả 2 cháu đã ở cùng với chị H bên ngoại và có gia đình, người thân hỗ trợ, hơn nữa con chung còn nhỏ rất cần sự chăm sóc khéo léo của người mẹ. Hơn nữa anh K thường xuyên đi làm ăn ở xa nên không có điều kiện gần gũi chăm sóc con chung. Vì vậy nên cần giữ nguyên hiện trạng để ổn định sinh hoạt của con chung do đó tiếp tục giao cả 2 con chung là Trần Hạo N - sinh ngày 03/8/2014 và Trần Minh N – sinh ngày 05/10/2016 cho chị Nguyễn Thị H nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh K là phù hợp với tình hình thực tế cũng như quy định của pháp luật.

- Quan hệ tài sản: chị H không yêu cầu tòa án giải quyết nên miễn xét.

*Về án phí: chị H phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 28; khoản 1 điều 228; khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51; 56; 81; 82; 83 của Luật Hôn Nhân và Gia đình;

- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Trần Văn K.

- Về con chung: Tiếp tục giao con chung là Trần Hạo N - sinh ngày 03/8/2014 và Trần Minh N – sinh ngày 05/10/2016 cho chị Nguyễn Thị H nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh K đến khi có yêu cầu.

Anh K không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

- Án phí: Căn cứ vào khoản 4 điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

Buộc chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của chị H được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Y (Biên lai thu tiền số: 0000198, ngày 18 tháng 12 năm 2019), chị H đã nộp đủ án phí. Án xử công khai sơ thẩm, hai bên đương sự vắng mặt. Tuyên bố để các bên đương sự biết, các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2020/HNGĐ-ST ngày 17/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:07/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về