Bản án 07/2020/DS-ST ngày 14/01/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY – TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 07/2020/DS-ST NGÀY 14/01/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 197/2019/TLST-DS ngày 02 tháng 12 năm 2019, về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 168/2019/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm 1974 (Có mặt). Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Cao Thị Ngọc H, sinh năm 1974 (Có mặt).

Cao Thị Ngọc S, sinh năm 1953 (Có mặt). Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc A trình bày:

Năm 2016, chị A cho chị H vay 300.000.000 đồng, có làm giấy viết tay, lãi suất thỏa thuận 3%/tháng, hẹn 03 tháng trả tiền vốn và lãi, nhưng chị H trả được tiền vốn 60.000.000 đồng; đồng thời chị H có trả số tiền lãi 27.000.000 đồng, nhưng không có làm biên nhận, giấy tờ gì. Hiện nay chị H còn nợ chị A 240.000.000 đồng. Bà S là mẹ của chị H có ký giấy cam kết bảo lãnh đồng ý trả tiền vay cho chị H. Chị A nhiều lần yêu cầu chị H và bà S trả tiền, nhưng không trả. Trong thời gian vay tiền chị H chỉ có trả cho chị A được 27.000.000 đồng tiền lãi, chị H không có trả tiền lãi 114.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, chị A yêu cầu chị H và bà S liên đới trả 240.000.000 đồng, không tính lãi; trả tiền ngay khi án có hiệu lực pháp luật. Chị A không đồng ý chị H và bà S trả dần tiền.

Ngoài ra không yêu cầu gì khác.

* Tại phiên tòa, bị đơn chị Cao Thị Ngọc H trình bày:

Năm 2016, chị H nhiều lần vay tiền của chị A tổng cộng 300.000.000 đồng, có làm giấy viết tay, lãi suất thỏa thuận 3%/tháng, trong thời gian vay tiền chị H có trả được cho chị A tiền vốn 60.000.000 đồng; đồng thời có trả cho chị A số tiền lãi là 114.000.000 đồng, nhưng không có làm biên nhận, giấy tờ gì. Bà S là mẹ của chị H có ký giấy cam kết bảo lãnh trả tiền vay cho chị H. Hiện nay chị H còn nợ chị A 240.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, chị H đồng ý liên đới với bà S trả cho chị A 240.000.000 đồng, nhưng xin trả dần mỗi tháng 10.000.000 đồng, thời gian trả tiền tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật cho đến khi hết nợ.

Chị H không tranh chấp về số tiền lãi chị H đã trả cho chị A. Ngoài ra không yêu cầu gì khác.

* Tại phiên tòa, bị đơn bà Cao Thị Ngọc S trình bày:

Năm 2016, chị H vay của chị A 300.000.000 đồng, có làm giấy viết tay, lãi suất thỏa thuận 3%/tháng, trong thời gian vay tiền chị H có trả được cho chị A tiền vốn 60.000.000 đồng và tiền lãi 114.000.000 đồng. Bà S có cam kết bảo lãnh trả nợ vay cho chị H.

Tại phiên tòa, bà S đồng ý liên đới với chị H trả cho chị A 240.000.000 đồng, nhưng xin trả dần mỗi tháng 10.000.000 đồng, thời gian trả tiền tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật cho đến khi hết nợ.

Bà S không tranh chấp về số tiền lãi chị H đã trả cho chị A. Ngoài ra không yêu cầu gì khác.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán đã thực hiện đúng các thủ tục tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị A. Buộc chị H và bà S liên đới trả cho chị A 240.000.000 đồng; trả tiền ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Theo các tình tiết của vụ án và yêu cầu của đương sự. Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp là “Hợp đồng vay tài sản”, cần áp dụng giải quyết theo các điều 463 và 466 Bộ luật dân sự.

[2] Theo lời trình bày và yêu cầu của các đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Xét chị A yêu cầu chị H và bà S liên đới trả lại cho chị A 240.000.000 đồng là có cơ sở. Bởi lẽ, chị H và bà S thừa nhận chị H có vay của chị A 300.000.000 đồng, trả được 60.000.000 đồng, hiện nay còn nợ lại chị A 240.000.000 đồng chưa trả; đồng thời bà S đồng ý cam kết bảo lãnh trả nợ cho chị H. Chị A nhiều lần yêu cầu chị H và bà S trả tiền, nhưng không trả tiền. Do đó chị A yêu cầu chị H và bà S liên đới trả lại số tiền nêu trên là có cơ sở, nên chấp nhận.

- Về thời gian trả tiền: Chị A yêu cầu chị H và bà S liên đới trả 240.000.000 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật; chị H và bà S đồng ý liên đới trả cho chị A 240.000.000 đồng, nhưng xin trả dần mỗi tháng 10.000.000 đồng, thời gian trả tiền tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật cho đến khi hết nợ. Xét yêu cầu trả dần tiền của chị H và bà S không được chị A đồng ý, nên không có cơ sở chấp nhận.

- Xét giữa chị A với chị H và bà S không có yêu cầu, tranh chấp gì về tiền lãi, nên không xem xét.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị A. Buộc chị H và bà S liên đới trả cho chị A 240.000.000 đồng; trả tiền ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

[3] Về án phí: Chị H và bà S mỗi người phải chịu 6.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, bà S có đơn yêu cầu miễn nộp án phí, do thuộc diện người cao tuổi; nên xem xét miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm cho bà S.

[4] Xét ý kiến, đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điều 463, 466; khoản 1 Điều 468 Bộ Luật dân sự.

- Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Luật thi hành án dân sự.

X: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc A.

- Buộc chị Cao Thị Ngọc H và bà Cao Thị Ngọc S có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Nguyễn Thị Ngọc A số tiền 240.000.000 đồng (Hai trăm bốn mươi triệu đồng); trả tiền ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên có nghĩa vụ chậm thực hiện thì phải chịu lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

- Về án phí:

+ Chị H phải chịu 6.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

+ Miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm cho bà S, do thuộc diện người cao tuổi.

+ Hoàn lại cho chị A tiền tạm ứng án phí 6.000.000 đồng theo biên lai thu số 0016116 ngày 29/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Công Tây.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thực hiện theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2020/DS-ST ngày 14/01/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:07/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về