Bản án 07/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM 

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 30/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02/2019/TLST- HS ngày 10 tháng 01 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1981 tại Hà Nam; nơi cư trú: Xóm 16, thôn P, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị C; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 26/7/2002 bị Công an huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền số tiền là 100.000 (một trăm nghìn) đồng về hành vi: “Tàng trữ trái phép vũ khí thô sơ”.

- Ngày 23/9/2011 bị Tòa án nhân dân quận Ba Đinh, Thành phố Hà Nội xử phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong bản án ngày 07/3/2013.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/11/2018 cho đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn T1. Vắng mặt.

2. Anh Trương Quang H. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn T2. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoàng 10 giờ ngày 20/11/2018 tổ tuần tra Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã H làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên trục đường bê tông thuộc xóm 9, thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam thì phát hiện hai đối tượng đi xe đạp có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tội phạm về ma túy. Tổ tuần tra yêu cầu kiểm tra hành chính thì đối tượng điều khiển xe đạp nhảy xuống xe bỏ chạy, còn đối tượng ngồi sau là Nguyễn Văn T nhanh chóng thả từ trên tay xuống nền đất lề đường bê tông gần chân phải chỗ T đang đứng 01 gói ma túy màu trắng. Lực lượng Công an huyện Lý Nhân đã tiến hành thu giữ, kiểm tra bên trong gói giấy có chứa chất bột dạng cục màu trắng và 01 xilanh nhựa, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel đã qua sử dụng, 01 xe đạp màu xanh đã qua sử dụng của T. Công an huyện Lý Nhân đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng theo đúng quy định của pháp luật. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật đối với Nguyễn Văn T không phát hiện, thu giữ tài liệu, đồ vật gì.

Tại bản kết luận giám định số: 180/PC09-MT ngày 22/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,177 (không phẩy một trăm bảy mươi bảy) gam, loại: Heroine”.

Qúa trình điều tra: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội. Cơ quan Công an huyện Lý Nhân tiếp tục xác minh, làm rõ hành vi của Nguyễn Hữu H cùng đi với T và Nguyễn Văn T3 bán ma tuý cho T, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

- Đối với chiếc xe đạp màu xanh đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Văn T1 (là bố đẻ của bị cáo). Ông T1 không biết T lấy xe khi nào và sử dụng vào mục đích gì nên Công an huyện Lý Nhân đã trả lại chiếc xe đạp trên cho ông Nguyễn Văn T1.

Vật chứng vụ án đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện L gồm:

+ 01 xilanh nhựa và 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 180/PC54-MT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam ghi mẫu vật hoàn trả ký hiệu là QT01 là công cụ, phương tiện phạm tội do đó tịch thu, tiêu hủy.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel đã qua sử dụng của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội.

Tại bản cáo trạng số: 07/CT-VKSLN ngày 07/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Tại phiên tòa:

+ Bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận hành vi của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân đã truy tố.

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với Nguyễn Văn T. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 30 đến 36 tháng tù. Hình phạt bổ sung không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel đã qua sử dụng nhưng quản lý để bảo đảm thi hành án. Các vật chứng còn lại tịch thu tiêu huỷ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các hồ sơ tài liệu trong vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà là phù hợp lời khai của bị cáo, những người tham gia tố tụng khác tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng vụ án thu được và các tài liệu trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở kết luận: Khoàng 10 giờ ngày 20/11/2018 tại trục đường bê tông thuộc xóm 9, thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn T có hành vi cất giữ trái phép 01 gói ma túy loại Heroin, có khối lượng 0,177g để sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện Lý Nhân phối hợp Công an xã H bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh trật tự địa phương. Vì vậy phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tội phạm về ma tuý là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, làm mất trật tự trị an xã hội, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân; Bị cáo có nhân thân xấu, vì vậy căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có thể giáo dục, cải tạo được bị cáo, đồng thời có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lợi nên không áp dụng.

[4] Về xử lý vật chứng:

+ 01 xilanh nhựa và 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 180/PC54-MT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam ghi mẫu vật hoàn trả ký hiệu là QT01 là công cụ, phương tiện phạm tội do đó tịch thu, tiêu hủy.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel đã qua sử dụng của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

1. Về hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 20/11/2018.

2. Về xử lý vật chứng

Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 xilanh nhựa và 01 phong bì niêm phong nguyên vẹn số 180/PC54-MT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam ghi mẫu vật hoàn trả ký hiệu là QT01.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel đã qua sử dụng. Tình trạng số lượng, loại vật chứng cụ thể như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra với Chi cục thi hành án huyện L ngày 08/01/2019.

3. Về án phí

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/1016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 30/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về