Bản án 07/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 21/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 06/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo: Họ và tên: Đỗ Viết C (tên gọi khác: Đỗ Văn T), sinh ngày 25 tháng 9 năm 1980; Sinh trú quán: Thôn N 1, xã L, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 06/12; Chức vụ Đảng, Đoàn thể: Không; Con ông Đỗ Văn K và bà Ngô Thị V; Có vợ là Phùng Thị A (Đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2007; Tiền sự: Không; Tiền án: Một tiền án, tại Bản án số: 35/2017/HSST ngày 31/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 06/5/2018 bị cáo chấp hành xong án phạt tù (tính đến thời điểm phạm tội ngày 16/12/2018 thì chưa được xóa án tích); Tiền sử: Tại Quyết định số: 1364/QĐ-UBND ngày 21/11/2011 bị Chủ tịch UBND quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 17/12/2018 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, (có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Cháu Ngô Thị Thu H, sinh năm 2003 (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của cháu H: Ông Ngô Văn X, sinh năm 1979 và bà Vũ Thị T1, sinh năm 1979, (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn N 2, xã L, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Đỗ Văn K, sinh năm 1959 (vắng mặt). Nơi cư trú: Thôn N 1, xã L, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc

+ Chị Đào Thị T2, sinh ngày 04/02/1988 (vắng mặt). Nơi cư trú: Khu 4, thị trấn B, huyện E, tỉnh Vĩnh Phúc Người làm chứng:

+ Bà Kiều Thị C1 , sinh năm 1952 (vắng mặt). Nơi cư trú: Thôn N 1, xã L, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc

+ Bà Vũ Thị N1, sinh ngày 13/6/1994 (vắng mặt).

+ Anh Bạch Văn H1, sinh ngày 17/3/1991 (vắng mặt). Đều có nơi cư trú: Thôn N 3, xã L, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 16/12/2018, Đỗ Viết C (tên gọi khác là Đỗ Văn T), đi bộ qua nhà bà Kiều Thị C1, ở cùng thôn thì phát hiện phía bên trái cổng dựng 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu ASAMA, màu trắng - xanh không có người trông giữ nên nảy sinh ý định trộm cắp. C đến gần dùng tay phải cầm vào yên, tay trái cầm vào tay lái bên trái nhấc xe quay ra đường rồi ngồi lên yên phóng nhanh về phía xã Đ, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc. Sau đó C mang chiếc xe trộm cắp được đến bán cho chị Đào Thị T2, ở khu 4, thị trấn B, huyện E, tỉnh Vĩnh Phúc được 500.000đồng để tiêu sài cá nhân.

Nhận được tin báo Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc đã tiến hành điều tra và làm rõ Đỗ Viết C là đối tượng đã trộm cắp chiếc xe đạp tại gia đình bà C1 như nội dung trên. Quá trình xác minh, bố đẻ C là ông Đỗ Văn K, đã chuộc lại của chị T2 chiếc xe đạp trên và tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra. Bản thân C cũng tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra 50.000đồng là số tiền còn lại sau khi bán xe và tiêu sài hết 450.000đồng.

Quá trình điều tra xác định chiếc xe đạp nhãn hiệu ASAMA, màu trắng - xanh là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của cháu Ngô Thị Thu H, sinh năm 2003 ở Thôn N 2, xã L, là cháu ngoại bà C1. Ngày 17/12/2018 Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho cháu H. Ngoài ra ông Đỗ Văn K đã dùng 500.000đ là tiền của cá nhân ông để chuộc lại chiếc xe do C trộm cắp. Đến nay cháu H và ông K đều không có yêu cầu, đề nghị gì nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với chị Đào Thị T2 là người đã mua chiếc xe đạp nhãn hiệu ASAMA của C, quá trình điều tra làm rõ: Khi mua bán chị T2 và C đều không hỏi, không trao đổi gì về nguồn gốc xe, do đó chị T2 không biết là tài sản do C phạm tội mà có. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với chị T2.

Vật chứng của vụ án: Số tiền 50.000đồng là số tiền còn lại sau khi C bán tài sản có được do trộm cắp và đã tiêu sài cá nhân hết 450.000đồng, bị cáo không có đề nghị gì về số tiền này nên cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước.

Tại kết luận định giá số: 72/KL-GĐ ngày 17/12/2018 kết luận: Chiếc xe đạp, nhãn hiệu ASAMA, màu trắng - xanh trị giá: 1.800.000đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng).

Tại Cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 04/3/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc truy tố Đỗ Viết C về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như Cáo trạng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đỗ Viết C từ 09 (Chín) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 17 tháng 12 năm 2018.

Đề nghị không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo C vì bị cáo không có thu nhập ổn định.

Đề nghị áp dụng Điều 46, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 50.000đồng là số tiền còn lại sau khi bị cáo bán tài sản có được do trộm cắp. Đề nghị giải quyết về án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Đỗ Viết C không có ý kiến bổ sung gì khác và không ai có ý kiến tham gia tranh luận.

Tại phiên tòa bị cáo nói lời sau cùng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 16/12/2018, tại cổng nhà bà Kiều Thị C1, lợi dụng sơ hở do không có người trông giữ tài sản nên Đỗ Viết C đã trộm cắp của cháu Ngô Thị Thu H (là cháu ngọai bà C1) 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu ASAMA, màu trắng - xanh, theo kết luận định giá bằng 1.800.000đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng). Sau khi mang chiếc xe này đi tiêu thụ thì C bị Cơ quan Công an phát hiện, thu giữ.

Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng của vụ án, phù hợp lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Đỗ Viết C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Điều luật quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

b) Đã bị kết án về tội này…chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.

Xét tính chất vụ án ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây bất bình trong nhân dân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần xử lý nghiêm trước pháp luật mới có tác dụng đấu tranh phòng chống tội phạm.

Xét nhân thân cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự là gây thiệt hại không lớn và người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bố đẻ của bị cáo đã chuộc lại chiếc xe đạp do bị cáo trộm cắp và tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra để khắc phục hậu quả.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, trước khi phạm tội bị cáo đã bị kết án và chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật và ham muốn kiếm tiền bất chính nhằm mục đích tiêu sài cá nhân. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm buộc bị cáo phải cách ly khỏi cuộc sống cộng đồng để chấp hành hình phạt tù tại trại giam với mức án như đề nghị của Viện kiểm sát mới đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa và giáo dục chung

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự còn quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có tài sản và thu nhập nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Đối với chiếc xe đạp nhãn hiệu ASAMA, màu trắng - xanh là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của cháu Ngô Thị Thu H trả lại cho cháu H là đúng Luật định. Ngoài ra ông Đỗ Văn K đã dùng 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng) là tiền của cá nhân ông để chuộc lại chiếc xe do bị cáo C trộm cắp. Đến nay cháu H và ông K đều không có yêu cầu, đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: Số tiền 50.000đồng là tiền còn lại sau khi bị cáo bán tài sản có được do trộm cắp và đã tiêu sài cá nhân hết 450.000đồng, bị cáo không có đề nghị gì về số tiền này nên cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước.

Đối với chị Đào Thị T2 là người đã mua chiếc xe đạp nhãn hiệu ASAMA của bị cáo C, quá trình điều tra làm rõ: Khi mua bán chị T2 và bị cáo C đều không hỏi, không trao đổi gì về nguồn gốc xe, do đó chị T2 không biết là tài sản do C phạm tội mà có. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với chị T2 là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Viết C (tên gọi khác: Đỗ Văn T), phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Viết C (tên gọi khác: Đỗ Văn T) 12 (Mười hai) tháng tù thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 17 tháng 12 năm 2018.

Căn cứ vào Điều 46, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 50.000đồng (Năm mươi nghìn đồng) là số tiền còn lại sau khi bị cáo bán tài sản có được do trộm cắp. Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Lạc lập ngày 11 tháng 3 năm 2019.

Về án phí:

Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Đỗ Viết C phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, có mặt có quyền kháng cáo bản án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 21/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về