Bản án 07/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A LƯỚI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Trong ngày 06 tháng 8 năm 2019, tại Hội trường trụ sở Tòa án nhân dân huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2019, đối với bị cáo:

Tu Lom T, sinh ngày 27-10-1997, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Thôn Par N, xã A, huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Tà Ôi; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tu Lom N (đã chết) và bà Kê Thị D, sinh năm 1975; vợ con chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Khang N; địa chỉ: Số 171 Phạm Văn Đ, phường Vỹ D, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại (Theo Giấy ủy quyền số 007.19/2019/GUQ-KN ngày 24/6/2019 của Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Khang N): Anh Lê Quang Q, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn Quảng T, xã Sơn T, huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Hồ Ngọc Th, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn Diên M, xã A, huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

+ Chị Kê Thị D, sinh năm 1975; địa chỉ: Thôn Par N, xã A, huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

- Người làm chứng: Anh Pi Riu X, sinh ngày 05-4-2001; địa chỉ: Thôn Par N, xã A, huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 28-02-2019, sau khi nhậu tại nhà bạn là Nguyễn Văn T (Tên gọi khác: Tiêng, sinh năm 1999) ở thôn A, xã Hồng B, huyện A, Tu Lom T gọi điện thoại đến số 0234.3667788 để thuê xe taxi đến chở T về nhà. Một lúc sau, anh Hồ Ngọc Th là nhân viên lái xe taxi của Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Khang N điều khiển chiếc xe ô tô Suntaxi biển kiểm soát 75A-104.98, loại phương tiện ô tô con, nhãn hiệu Hyundai, loại Grand i10, số máy: G3LAHM264476, số khung: 51AAJM599046 đến thôn A, xã Hồng B chở T, Hồ Văn Tn (Sinh năm 1998, trú tại thôn A, xã Hồng B, huyện A) và anh A Viết H (Sinh năm 1998, trú tại thôn Par N, xã A, huyện A) về nhà của T tại thôn Par N, xã A, huyện A. Đến nơi, do không có tiền trả cước taxi nên T hẹn anh Th đến 19 giờ cùng ngày quay lại lấy tiền, còn T vào nhà của mình tiếp tục nhậu cùng H, Tn, ông Phạm Đăng D (Sinh năm 1963) và ông Kê Văn Đ (Sinh năm 1981) cùng trú tại thôn Par N, xã A.

Đến khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày, anh T điều khiển xe ô tô 75A- 104.98 quay lại nhà T để lấy tiền thì T lại hẹn khoảng 08 giờ 00 phút ngày 01-3- 2019 sẽ đem tiền ra bến xe huyện A trả cho anh Th. Anh Th đồng ý rồi lên xe ô tô 75A-104.98 để ra về. Lúc đó, T nhảy lên mui xe ô tô 75A-104.98 dùng chân đạp vào kính chắn gió phía trước của xe rồi chạy vào nhà bếp lấy 01 thanh tre dài khoảng 65cm, đường kính 05cm, một đầu nhọn, một đầu bằng, bên ngoài có màu đen và 01 thanh gỗ dài khoảng 150cm, một đầu nhọn, một đầu bằng, bên ngoài có màu đen, bên trong có màu nâu nhạt chạy ra nơi chiếc xe ô tô 75A-104.98 đang đậu. Khi anh Th mới quay đầu xe ô tô xong thì T dùng thanh tre đập vào kính chắn gió phía trước, kính chắn gió cửa trước bên phải của xe ô tô 75A-104.98, sau đó T bỏ lại thanh tre bên đường và tiếp tục dùng thanh gỗ đập vào tay cầm cửa trước bên phải và trần của xe ô tô, thanh gỗ bị gãy thành hai.

Tiếp đó, T nhặt 01 viên gạch bên đường ném vào kính chắn gió cửa trước bên phải xe, viên gạch vỡ vụn. Thấy T dùng thanh gỗ, thanh tre đập xe ô tô 75A-104.98 làm các cửa kính chắn gió của xe bị vỡ, anh Th sợ nên đã mở cửa xe bỏ chạy và trình báo vụ việc với Công an huyện A Lưới. Ngay sau khi nhận được tin báo, Cơ quan Điều tra Công an huyện A Lưới đã mời những người có liên quan đến làm việc và tiến hành tạm giữ các tài liệu, đồ vật sau:

- 01 xe ô tô biển kiểm soát 75A-104.98, loại phương tiện ô tô con, nhãn hiệu: Hyundai, loại Grand i10, số máy: G3LAHM264476, số khung: 51AAJM599046 bị vỡ kính chắn gió phía trước; kính chắn gió cửa trước bên phải; hỏng tay cầm cửa trước bên phải; móp méo trần trên phía bên phải; vỡ mặt trong cửa sau phía bên trái phương tiện; trầy xước sơn xe.

- 01 thanh tre dài khoảng 65cm, đường kính 05cm, một đầu nhọn, một đầu bằng, bên ngoài có màu đen; 01 thanh gỗ có kích thước 03 x 02 x 65cm, một đầu nhọn, một đầu bằng, bên ngoài có màu đen, bên trong có màu nâu nhạt; 01 thanh gỗ có kích thước 03 x 02 x 90cm, một đầu nhọn, một đầu bằng, bên ngoài có màu đen, bên trong có màu nâu nhạt.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 10/KLĐG-HĐ ngày 12-3-2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện A thống nhất về giá trị những thiệt hại của xe ô tô 75A-104.98 tại thời điểm bị đập phá ngày 28-02-2019 để thay thế phụ tùng như sau:

1. Thay kính chắn gió phía trước: 3.750.000 đồng; 2. Công thợ dán keo: 600.000 đồng; 3. Thay kính cửa quay phía trước bên phụ: 1.650.000 đồng; 4. Tay cầm cửa trước bên phụ: 350.000 đồng; 5. Sơn cửa trước bên phụ: 650.000 đồng; 6. Thuế giá trị gia tăng tại khoản 1, 3, 4 x10%: 575.000 đồng. Tổng cộng: 7.575.000 đồng (Bảy triệu năm trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

Đến ngày 01-4-2019, Cơ quan Điều tra Công an huyện A Lưới đã trả lại chiếc xe ô tô 75A-104.98 cho đại diện của Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Khang N là anh Phạm Văn T, sinh năm 1982, Giám đốc Điều hành của Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Khang N.

Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Qúa trình điều tra, truy tố, bị cáo, bị hại không có khiếu nại gì về các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người đại diện hợp pháp của bị hại có ý kiến đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Cáo trạng số: 04/CT-VKS ngày 10-7-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A Lưới đã quyết định truy tố Tu Lom T về tội “Cố ý gây làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Tu Lom T từ 06 đến 09 tháng tù. Về vật chứng áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy thanh tre và thanh gỗ là công cụ thực hiện hành vi phạm tội. Về dân sự đã thỏa thuận bồi thường xong, không có yêu cầu gì thêm nên không đề nghị xem xét và không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Về dân sự, chị Kê Thị D là mẹ đẻ của bị cáo đã tự nguyện bồi thường thay cho bị cáo giá trị các tài sản bị hư hỏng của xe Ô tô cho đại diện của Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Khang N với số tiền 7.575.000 đồng (Bảy triệu năm trăm bảy mươi lăm nghìn đồng); đối với số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) mà Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Khang N yêu cầu bị cáo bồi thường thì giữa đại diện Công ty và bị cáo đã thỏa thuận và đến ngày 30-7-2019 thì bị cáo đã bồi thường xong. Đại diện hợp pháp của Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Khang N thừa nhận về dân sự đã thương lượng, thỏa thuận và bị cáo đã bồi thường đầy đủ nên không yêu cầu gì thêm.

Anh Hồ Ngọc Th yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) mất thu nhập từ ngày 01-3-2019 đến ngày 07-3-2019 và tiền bị cáo thuê xe taxi 90.000 đồng (Chín mươi nghìn đồng). Bị cáo đã bồi thường cho anh Th số tiền trên nên anh Th không yêu cầu gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về các quyết định, hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng; các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 28-02-2019, tại ngã tư đường liên thôn thuộc địa phận thôn Par N, xã A, huyện A, Tu Lom T đã có hành vi nhảy lên mui xe, dùng chân đạp vào kính chắn gió phía trước của xe ô tô Suntaxi biển kiểm soát 75A-104.98, nhãn hiệu Hyundai, loại Grand i10 của Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Khang N; dùng thanh tre đập vào kính chắn gió phía trước, kính chắn gió cửa trước bên phải của xe ô tô; dùng thanh gỗ đập vào tay cầm cửa trước bên phải của xe ô tô và nhặc viên gạch bên đường ném vào kính chắn gió cửa trước bên phải xe ô tô. Hậu quả: Chiếc xe Ô tô 75A-104.98 bị vỡ kính chắn gió phía trước, kính chắn gió cửa trước bên phải; hỏng tay cầm cửa trước bên phải; móp méo trần trên phía bên phải; vỡ mặt trong cửa sau phía bên trái và trầy xước sơn xe với giá trị thiệt hại là 7.575.000 đồng (Bảy triệu năm trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).

Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Xem xét các yếu tố cấu thành tội phạm thì hành vi của bị cáo phạm vào tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện A Lưới đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Giữa bị cáo và bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có mâu thuẫn gì trước đó. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ nhưng do trước đó đã uống nhiều bia rượu, có biểu hiện say xỉn, không làm chủ được bản thân nên đã có hành động bộc phát đập phá, cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác.

Mặc dù, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong lúc say xỉn nhưng đây không phải là trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự mà ngược lại, cần phải lên án vì việc lợi dụng bia rượu để thực hiện hành vi phạm tội, vi phạm pháp luật đang là tình trạng khá phổ biến, gây ra nhiều hệ lụy trong xã hội, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Cần phải xử lý nghiêm khắc theo pháp luật hình sự.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và người đại diện hợp pháp của bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cần áp dụng là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Nhưng bị cáo phạm vào một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm d khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là phạm tội có tính chất côn đồ. Xét thấy cần phải cách ly bị cáo T ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để có thời gian cải tạo, giáo dục trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 178; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Tu Lom T từ 06 đến 09 tháng tù, là đã xem xét toàn diện, khách quan các yếu tố cấu thành tội phạm, các tình tiết giảm nhẹ, tặng nặng trách nhiệm hình sự, đã đánh giá tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo, đúng quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[6] Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo còn phải chịu thêm hình phạt bổ sung bằng tiền theo khoản 5 Điều 178 Bộ luật Hình sự. Song, xét hoàn cảnh bị cáo kinh tế khó khăn nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền. Vì vậy, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Xét thấy chị Kê Thị D là mẹ đẻ của bị cáo đã tự nguyện bồi thường thay cho bị cáo giá trị các tài sản bị hư hỏng của xe ô tô với số tiền 7.575.000 đồng (Bảy triệu năm trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) và 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) tiền mất thu nhập kinh doanh theo thỏa thuận cho đại diện của Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Khang N đã nhận đầy đủ; bị cáo cũng đã bồi thường cho anh Hồ Ngọc Th số tiền 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) mất thu nhập theo thỏa thuận và tiền thuê xe taxi 90.000 đồng (Chín mươi nghìn đồng) đã nhận đầy đủ. Tại phiên tòa, không có ý kiến, yêu cầu gì thêm về mặt dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: Tại giai đoạn điều tra, Cơ quan Điều tra Công an huyện A Lưới đã có Quyết định xử lý vật chứng trả lại một chiếc xe Ô tô 75A- 104.98 cho chủ sở hữu là Công ty Cổ phần Đầu tư Du lịch Khang N, do người đại diện hợp pháp trực tiếp nhận là đúng quy định pháp luật nên không xem xét gì thêm.

Đi với vật chứng là 01 thanh tre dài khoảng 65cm, đường kính 05cm, một đầu nhọn, một đầu bằng, bên ngoài có màu đen; 01 thanh gỗ có kích thước 03 x 02 x 65cm, một đầu nhọn, một đầu bằng, bên ngoài có màu đen, bên trong có màu nâu nhạt; 01 thanh gỗ có kích thước 03 x 02 x 90cm, một đầu nhọn, một đầu bằng, bên ngoài có màu đen, bên trong có màu nâu nhạt mà bị cáo đã dùng làm công cụ phạm tội do không có giá trị sử dụng nên cần căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu hủy.

[9] Về án phí: Cần áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017,

1.Tuyên bố: Bị cáo Tu Lom T phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Bị cáo Tu Lom T 09 (Chín) tháng tù, tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu và tiêu hủy 1 thanh tre dài khoảng 65cm, đường kính 05cm, một đầu nhọn, một đầu bằng, bên ngoài có màu đen; 01 thanh gỗ có kích thước 03 x 02 x 65cm, một đầu nhọn, một đầu bằng, bên ngoài có màu đen, bên trong có màu nâu nhạt; 01 thanh gỗ có kích thước 03 x 02 x 90cm, một đầu nhọn, một đầu bằng, bên ngoài có màu đen, bên trong có màu nâu nhạt.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, buộc bị cáo Tu Lom T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện A Lưới - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về