Bản án 07/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 28 tháng 11 năm 1987, tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: bản N, xã B, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị H (đã chết); bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16 tháng 10 năm 2018 đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 30 phút ngày 16/10/2018, Tổ công tác Công an phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 11, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Ngọc T đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma tuý.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói nilon bên trong chứa 08 viên nén hình tròn đồng dạng màu hồng.

- 03 gói nilon có viền mép dán màu đỏ, bên trong lần lượt chứa 29 viên, 45 viên và 63 viên nén hình tròn đồng dạng màu hồng. (Thu giữ tại túi áo khoác trái phía trước Nguyễn Ngọc T đang mặc). Ngoài ra còn tạm giữ:

- 01 giấy phép lái xe mô tô số AN 907018; 01 chứng minh nhân dân số 050580895 đều mang tên Nguyễn Ngọc T.

- 01 giấy đăng ký mô tô, xe máy số 0147312 mang tên Bùi Thị Thu H do Công an Hà Tây cấp ngày 08/9/2004.

- 01 xe máy HONDA Wave màu đỏ BKS 22M5-1837.

- 01 điện thoại di động Iphnoe 5S màu trắng; 01 điện thoại di động OPPOmàu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh da trời.

- Số tiền 750.000,đ do Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành.Quá trình điều tra, Nguyễn Ngọc T khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Do bản thân nghiện ma túy, khoảng 16 giờ 00 phút ngày 16/10/2018, Nguyễn Ngọc T điều khiển xe máy HONDA Wave màu đỏ BKS 33M5-1837 đi từ nhà ở bản N, xã B, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đến khu vực xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy về sử dụng. T gặp và mua của một nam giới không quen biết 151 viên hồng phiến, gói trong 04 gói nilon với giá 6.500.000,đ (sáu triệu năm trăm nghìn đồng). T cất số ma túy vừa mua được vào túi áo khoác ngoài bên trái đang mặc rồi điều khiển xe máy đến khu vực đồi cà phê thuộc xã Chiềng Pấc, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Tại đây, T đã lấy ra 06 viên hồng phiến trong một gói nilon để sử dụng, số ma túy còn lại T cất vào túi áo khoác bên trái rồi tiếp tục điều khiển xe máy xuống thành phố Sơn La chơi. Khi đến khu vực tổ 11, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, Nguyễn Ngọc T bị tổ công tác Công an phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Ngày 17/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu gửi giám định vật chứng, kết quả:

- 08 viên nén hình tròn trong gói nilon thứ nhất có khối lượng 0,8 gam. Lấy 05 viên có khối lượng 0,5 gam (ký hiệu T7) làm mẫu gửi phòng Kỹ thuật hình sự(PC54) - Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy. Lưu kho 03 viên (ký hiệu T8), khối lượng 0,3 gam.

- 29 viên nén hình tròn trong gói nilon thứ hai có khối lượng 2,97 gam. Lấy05 viên có khối lượng 0,5 gam (ký hiệu T1) làm mẫu gửi phòng Kỹ thuật hình sự(PC54) - Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy. Lưu kho 24 viên (ký hiệuT2), khối lượng 2,47 gam.

- 45 viên nén hình tròn trong gói nilon thứ ba có khối lượng 4,65 gam. Lấy05 viên có khối lượng 0,5 gam (ký hiệu T3) làm mẫu gửi phòng Kỹ thuật hình sự (PC54) - Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy. Lưu kho 40 viên (ký hiệu T4), khối lượng 4,15 gam.

- 63 viên nén hình tròn trong gói nilon thứ tư có khối lượng 6,5 gam. Lấy 05 viên có khối lượng 0,5 gam (ký hiệu T5) làm mẫu gửi phòng Kỹ thuật hình sự (PC54) - Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy. Lưu kho 58 viên (ký hiệu T6), khối lượng 06 gam.

Tổng khối lượng 145 viên nén hình tròn đồng dạng màu hồng thu giữ của Nguyễn Ngọc T là 14,92 gam.

Kết luận giám định số 1107/KLMT ngày 22/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu giám định kí hiệu T1, T3, T5, T7 đều là ma túy; loại Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là2,0 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 14,92 gam, loại Methamphetamine”.Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Sơn La ra Quyết định trưngcầu giám định số 2130 ngày 17/10/2018 trưng cầu giám định đối với số tiền 750.000,đ (bảy trăm năm mươi nghìn đồng) thu giữ trong vụ án.

Kết luận giám định số 475/KLGĐ ngày 29/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Số tiền 750.000,đ gửi giám định là tiền thật.

Về nguồn gốc 14,92 gam Methamphetamine: Bị cáo Nguyễn Ngọc T khai mua của một người nam giới không quen biết vào ngày 16/10/2018 tại khu vực xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo, không còn nguồn tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra– Công an thành phố Sơn La không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số: 187/CT-VKSTP ngày13/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La truy tố: Bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T từ 7 (bảy) năm đến 7 (bảy) năm 6 (sáu) tháng tù.

Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 12,92 gam Methamphetamine còn lại; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 mảnh ni lon trong suốt; 03 mảnh ni lon trong suốt có viền đỏ

Trả lại cho bị cáo: 01 (Một) tờ giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Ngọc T; 01 (Một) tờ chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Ngọc T; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng đã qua sử dụng; Số tiền 750.000,đ (bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa , bị cáo Nguyễn Ngọc T nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát , đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

 [2] Ngày 16/10/2018, Nguyễn Ngọc T đã có hành vi cất giấu trái phép 14,92 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tạikhu vực tổ 11, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Tổng khốilượng chất ma túy thu giữ là 14,92 gam.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì bị cáo nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:

- Lời khai nhận tội của bị cáo;

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 19 giờ 30 phút ngày16/10/2018 tại tổ 11, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La đối với Nguyễn NgọcT cùng vật chứng thu giữ.

- Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 1107/KLMT ngày 22/10/2018 và Kết luận giám định số 475/KLGĐ ngày 29/10/2018 của Phòng kỹthuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La;

- Các biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của ông Nguyễn Mạnh L, sinh năm 1969 – Trú tại: Tổ X, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

 [3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội với tổng khối lượng 14,92 gam Methamphetamine đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Do đó, cần lên mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo;

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 18/6/2012 bị cáo bị Tòa án ND thành phố Sơn La xử phạt 7 tháng tù về tội trộm cắp tài sản đã được xóa án.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo nên cần áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự .

 [4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [5] Vật chứng vụ án:

Đối với 12,92 gam Methamphetamine còn lại sau khi đã lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy pháp luật Nhà nước cấm mua bán, vận chuyển, tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh nilon trong suốt, 03 mảnh nilon trong suốt có viền đỏ là vật dùng để cất giấu ma túy và vật không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh tạm giữ khi bắt quả tang. Xác định đây đều là tài sản của bị cáo Nguyễn Ngọc T, không sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo .

Đối với số tiền 750.000,đ (bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Xác định là tài sản của bị cáo Nguyễn Ngọc T, không sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe mô tô mang tên Nguyễn Ngọc T: Quá trình điều tra xác định là giấy tờ tùy thân của bị cáo Nguyễn Ngọc T, không sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha BKS 33M5 – 1837 màu đỏ, giấy đăng ký mô tô xe máy số 0147312 mang tên chủ sở hữu Bùi Thị Thu H: Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Tiến P – sinh năm 1977, trú tại tổ Y, phường Q, thành phố Sơn La (anh rể bị cáo) cho bị cáo T mượn. Việc bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi phạm tội anh P không biết, không tham gia. Do đó, ngày 31/01/2019, cơ quan CSĐT – Công an thành phố Sơn La đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe cho anh Nguyễn Tiến P quản lý và sử dụng.

 [6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 7 (bảy) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 16/10/2018).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) chiếc phong bì đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ . Sinh năm: 1987. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 16/10/2018. Gồm: Mẫu lưu kho ký hiệu T2 = 2,47 gam; T4 = 4,15 gam; T6 = 06 gam; T8 = 0,33 gam; 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 mảnh ni lon trong suốt; 03 mảnh ni lon trong suốt có viền đỏ”.

Trả lại cho bị cáo :

- 01 (Một) tờ giấy phép lái xe số AN 907018 do Sở giao thông vận tải Sơn La cấp ngày 28/7/2010 mang tên Nguyễn Ngọc T;

- 01 (Một) tờ chứng minh nhân dân số 050580895 do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 20/01/2010 mang tên Nguyễn Ngọc T;

- 01 (Một) chiếc phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh da trời có số IMEI 5 (năm) số cuối là 11131 đã qua sử dụng. Điện thoại có lắp theo 01 (một) sim di động mạng viettel có số sê ri 5 (năm) số cuối là 85546 đã qua sử dụng”;

- 01 (Một) chiếc phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng. Điện thoại có lắp theo 01 (một) sim di động mạng Vinaphone có số seri sim 5 (năm) số cuối là 89360, 01 (một) sim di động mạng Viettel có số seri sim 5 (năm) số cuối là 27293 và 01 (một) thẻ nhớ mang nhãn hiệu Micro 1 GB đã qua sử dụng’;

- 01 (Một) chiếc phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng có số Imei 5 số cuối là 01508 đã qua sử dụng. Điện thoại có lắp theo 01 (một) sim di động mạng Vinaphone có số seri sim 5 (năm) số cuối là 93108 đã qua sử dụng”;

- 01 (Một) chiếc phong bì của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Kèm theo KL số 475 trong vụ: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Số tiền: 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng)”.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/02/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Ngọc T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 05/3/2019)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về