Bản án 60/2018/HSST ngày 17/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 60/2018/HSST NGÀY 17/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 17/01/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 67/2017/TLST-HS ngày 29/12/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2018/QĐXXST-HS ngày05/01/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn H; Tên gọi khác: Không

Sinh năm: 1975, tại Điện Biên.

Nơi đăng ký NKTT: Đội X, xã Noong L, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

Chỗ ở: Đội X, xã Noong L, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nam, tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn Kh (đã chết) và con bà Lò Thị Ph (đã chết); có vợ là Lò Thị H (đã ly hôn) và chung sống như vợ chồng với Quàng Thị X; có 04 người con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án: 01 tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 13/06/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 08 năm tù về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Ngày19/5/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 24 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 30/9/2015 chấp hành xong hình phạt tù trở về sinh sống tại địa phương đến nay chưa được xóa án tích; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/11/2017 đến ngày xét xử, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 14/11/2017 Lò Văn H mang theo số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đi bộ từ nhà ra đầu đường đội X, xã Noong L, huyện Điện B tìm mua hêrôin để sử dụng, Tại đây H gặp một người đàn ông dân tộc Thái, khoảng 40 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ). Qua trao đổi, H đã hỏi mua 300.000 đồng hêrôin. H đưa cho người đàn ông ba tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng người đàn ông nhận tiền và đưa cho H 01(một) gói hêrôin được gói bên ngoài bằng giấy bạc màu vàng, tiếp đến là lớp nilon màu trắng bên trong là hêrôin. H mở ra xem rồi gói lại như cũ và cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc đi về nhà. Hồi 13 giờ 30 phút cùng ngày khi H đang ngồi ở bàn uống nước trong nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Điện B phối hợp với công an xã Noong L phát hiện, bắt quả tang thu giữ ở túi quần bên phải H đang mặc 01 (một) gói màu trắng đục nghi là hêrôin.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng hồi 17 giờ 45 phút ngày14/11/2017 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn H có khối lượng là 0,92 gam, trích mẫu gửi giám định 0,13 gam (không phẩy mười ba gam).

Tại bản Kết luận giám định số: 133/GĐ-PC54 ngày 04/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Số mẫu vật gửi giám định thu giữ của Lò Văn H là hêrôin. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại bản Cáo trạng số 14/QĐ-VKS-HS ngày 29/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn H về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại Khoản 1 Điều 194/BLHS năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa XIV; Khoản 3 Điều 7; Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52/BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo Lò Văn H từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,92g (không phẩy chín hai gam) hêrôin, đã trích mẫu gửi giám định 0,13 gam (không phẩy mười ba gam) không hoàn mẫu sau giám định.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo sống cùng gia đình bố đẻ ông Lò Văn Kh là hộ nghèo, đề nghị miễn án phí HSST cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn H cũng đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Do cần có ma túy để sử dụng và thỏa mãn cơn nghiện của mình nên bị cáo đã đi mua hêrôin về để sử dụng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện B, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 14/11/2017 bị cáo H đã có hành vi tàng trữ 0,92 gam hêrôin với mục đích sử dụng cho bản thân bị cáo ngoài ra không có mục đích nào khác. Hành vi của bị cáo Lò Văn H đã đầy đủ yếu tối cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã tàng trữ 0,92 gam hêrôin để sử dụng. Trọng lượng hêrôin thuộc Khoản 1 Điều 194BLS năm 1999 thì hành vi của bị cáo là nghiêm trọng và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo Khoản 1 của Điều 194/BLHS năm 1999 với hình phạt từ 02 đến 07 năm tù. Theo Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa XIV, Khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 về thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội được áp dụng đối với hànhvi phạm tội đã thực hiện trước khi Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành. Hành vi phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của bị cáo Lò Văn H theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung theo Luật số 12/2017QH14 ngày 20/6/2017 đã có hiệu lực pháp luật từ 01/01/2018 quy định mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù. Điểm c Khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung có mức hình phạt nhẹ hơn Khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999, HĐXX xét thấy cần áp dụng điều luật có mức hình phạt nhẹ hơn trên để áp dụng đối với bị cáo theo đúng quy định của pháp luật.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Lò Văn H sinh ra và lớn lên tại Điện Biên, không được đi học mà ở nhà tham gia lao động sản xuất cùng gia đình. Ngày 13/6/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Điện B xử phạt 08 năm tù về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Ngày19/5/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Điện B xử phạt 24 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 30/9/2015 chấp hành xong hình phạt tù trở về sinh sống tại địa phương. Bị cáo chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm theo Điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhân hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về nguồn gốc số hêrôin bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái, không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ, HĐXX không xem xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 249/BLHS năm 2015. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nguồn thu nhập chính nhờ làm ruộng nên không có khả năng thi hành. Cho nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; Điểm a Khoản2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,92 gam hêrôin, trích gửi giám định 0,13 gam không hoàn lại mẫu.

[7] Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm đ Khoản1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí cho bị cáo

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản1 Điều 52/BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung theo luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số: 41/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa XIV, Khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo: 19 (Mười chín) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 14/11/2017

2. Về vật chứng: Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 47/ BLHS năm 2015; Điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,92 gam hêrôin gửi giám định 0,13 gam không hoàn lại mẫu.

(Toàn bộ vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao cho Chi cục Thihành án dân sự huyện Điện Biên hồi 09 giờ 00 phút ngày 12 tháng 01 năm 2017)

3. Án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí cho bị cáo.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 17/01/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

434
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2018/HSST ngày 17/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về