Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 10/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 07/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 10 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 762/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2018 về “Xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01/3/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Tô Thị M, sinh năm 1992

Trú tại: đường H, Phường Đ, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng.

Bị đơn: Anh Võ Đắc V, sinh năm 1981

Trú tại: đường P, Phường A, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 20 tháng 11 năm 2018 nộp tại Tòa án thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Chị Tô Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Tô Thị M cùng anh Võ Đắc V chung sống với nhau từ năm 2009 đến năm 2014 mới đăng ký kết hôn, tại ủy ban nhân dân phường A, thành phố D, hôn nhân tự nguyện, không có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại đường P, phường A, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng, Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được vài năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, trong suy nghĩ, anh V thường xuyên nhậu nhẹt, say xỉn, đánh đập vợ con, không lo cho gia đình. Hiện nay vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị M xác định tình cảm vợ chồng không còn. Nên chị M yêu cầu ly hôn anh V.

Về con chung: Có hai con chung Võ Thị Quỳnh N, sinh ngày 11/6/2011 và Võ Đắc Thành N, sinh ngày 11/7/2013. Hiện nay cháu N đang ở với bố, cháu N đang ở với mẹ. Ly hôn chị M yêu cầu được nuôi cả hai con đến khi trưởng thành, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: không có.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, đã tống đạt, niêm yết thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, kết quả tiếp cận công khai chứng cứ theo quy định của pháp luật nhưng anh Võ Đắc V cũng không đến tòa. Nên tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên Tòa hôm nay: chị Tô Thị M vẫn yêu cầu xin ly hôn anh Võ Đắc V và yêu cầu được nuôi hai con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán: Từ khi nhận đơn đến lúc đưa vụ án ra xét xử, xác định tư cách tham gia tố tụng, quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án đúng theo quy định tại Điều 28, 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án có thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là đúng theo quy định.

Tòa án, xác minh, tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng cho đương sự cũng như trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, việc thu thập chứng cứ của vụ án, đều đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đảm bảo đúng quy định.

Về quan hệ hôn nhân: Giữa Chị Tô Thị M và anh Võ Đắc V là hợp pháp. Cuộc sống chung vợ chồng được vài năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh Vthường xuyên nhậu nhẹt, say xỉn, đánh đập vợ con, không lo cho gia đình, từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vã, chị M đã nhiều lần bỏ qua nhưng anh V không thay đổi, vợ chồng đã sống ly thân từ lâu không còn quan tâm đến nhau nữa. Vì vậy chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M.

Về con chung: Giao hai con chung Võ Thị Quỳnh N, sinh ngày 11/6/2011 và Võ Đắc Thành N, sinh ngày 11/7/2013 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên. Chị M không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Xuất phát từ yêu cầu khởi kiện của Chị Tô Thị M xin ly hôn anh Võ Đắc V, nên xác định quan hệ tranh chấp “Tranh chấp ly hôn” theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Qua xác minh anh V hiện ở tại đường P, Phường A thành phố D, tỉnh Lâm Đồng. Nên căn cứ Điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập, niêm yết hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Do đó căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Giữa chị Tô Thị M và anh Võ Đắc V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thành phố D, tỉnh Lâm Đồng. Trong quá trình chung sống được vài năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, trong suy nghĩ, anh V thường xuyên nhậu nhẹt, say xỉn, đánh đập vợ con, không lo cho gia đình, vợ chồng không có tiếng nói chung.

Tại phiên tòa chị M trình bày: Về việc ly hôn của vợ chồng đã được gia đình hai bên đã động viên, khuyên bảo, chị M cũng đã nhiều lần bỏ qua những lỗi lầm của anh V để vợ chồng xây dựng gia đình hạnh phúc nuôi dạy con cái nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn càng nhiều hơn cũng tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử cũng đã phân tích, động viên chị M trở về đoàn tụ gia đình để nuôi dạy con cái nhưng chị M không đồng ý và cũng xác nhận tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng ly thân đã lâu không còn quan tâm đến nhau nữa, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên mong muốn được ly hôn.

Từ khi thụ lý vụ án anh V đã được tòa án triệu tập, tống đạt, niêm yết hợp lệ nhưng vẫn không đến tòa để giải quyết. Qua biên bản xác minh tại k hu phố việc mâu thuẫn của vợ chồng chị M tổ không biết nên không có cơ sở để hòa giải, giải quyết.

Từ những nhận định trên xét thấy: Việc mâu thuẫn của vợ chồng bà M là có xảy ra đã đến mức trầm trọng không thể hàn gắn được, bản thân anh V cũng không đến tòa thể hiện không mong muốn đoàn tụ gia đình, cuộc sống vợ chồng không thể tiếp tục. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M là có cơ sở.

[4] Về con chung: Có hai con chung Võ Thị Quỳnh N, sinh ngày 11/6/2011 và Võ Đắc Thành N, sinh ngày 11/7/2013. Hiện nay cháu N đang ở với bố, cháu N đang ở với chị M. Tại biên bản tự khai chị M mong muốn được nuôi cháu N còn cháu N giao cho anh V nuôi dưỡng nhưng thời gian qua anh V không chăm lo cho con cái, thường xuyên đi chơi bời và theo biên bản lấy lời khai của cháu N, cháu cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Vì vậy, tại biên bản hòa giải và cũng tại phiên tòa hôm nay chị M mong muốn được nuôi cả hai con. Để đảm bảo quyền lợi cho các cháu chưa thành niên. Do đó vậy chấp nhận yêu cầu của chị M, giao hai con chung là cháu Võ Thị Quỳnh N, sinh ngày 11/6/2011 và Võ Đắc Thành N, sinh ngày 11/7/2013 cho chị Tô Thị M trực tiếp nuôi dưỡng đến ngày con thành niên,

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M không yêu cầu nên không đề cập [5] Tài sản chung, nợ chung: chị M xác định không có, nên không đề cập.

[6] Về án phí: Chị Tô Thị M phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 36, 39, 147 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ vào Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2014/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và xử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Tô Thị M. Cho chị Tô Thị M và anh Võ Đắc V được ly hôn.

2. Về nuôi con chung:

2.1 Giao con chung tên Võ Thị Quỳnh N, sinh ngày 11/6/2011 và Võ Đắc Thành N, sinh ngày 11/7/2013 cho chị Tô Thị M trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con thành niên.

2.2 Về trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con: Tô Thị M không yêu cầu.

Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp, không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, quyền thăm nom con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về án phí: Chị Tô Thị M phải chịu 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm (được trừ toàn bộ vào số tiền 300.000đồng chị M đã tạm nộp theo biên lai thu số AA/2016/0008727 ngày 05 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

4. Quyền kháng cáo:

Chị Tô Thị M có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Riêng anh Võ Đắc V vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ( niêm yết) bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 10/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:07/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về