Bản án 07/2019/HNGĐ ngày 26/03/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 07/2019/HNGĐ NGÀY 26/03/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 596/2018/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đặng Tuấn H; nơi cư trú: Số 6/560 T.l, phường V.N, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Trần Thị P; đăng ký thường trú tại: Số 6/560 T.L, phường V.N, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án tại Đội 23, phân trại I, Trại giam X.N, thành phố Hải Phòng; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 13 tháng 12 năm 2018 và tại các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, nguyên đơn là anh Đặng Tuấn Hòa trình bày:

Anh Đặng Tuấn H và chị Trần Thị P kết hôn trên cơ sở tự nguyện từ năm2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Dư Hàng, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ngày 22/7/2008. Đến nay có một con chung. Quá trình chung sống, ngay từ thời gian đầu mới kết hôn hai bên đã nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm sống, cách sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Mặc dù gia đình nhiều lần động viên khuyên giải nhưng mâu thuẫn không giải quyết được. Từ năm 2009 đến nay hai bên đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai về mọi mặt. Tháng 11/2018 chị P bị Tòa án nhân dân Quận Lê Chân xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy với mức án 21 năm tù. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng không còn khả năng đoàn tụ nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Trần Thị P. Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Đặng Trần Anh D, sinh ngày 19/9/200A. Ly hôn anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được nuôi con đến khi thành niên, không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa bị đơn là chị Trần Thị P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Tại biên bản lấy lời khai của đương sự và các tài liệu khác chị P trình bày: Vợ chồng chị mâu thuẫn và sống ly thân từ năm 2009 đến nay do hai bên bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau. Hiện nay chị đang phải chấp hành bản án hình sự với mức án 21 năm tù nên anh H có đơn xin ly hôn chị đồng ý và đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn. Về con chung: Chị đồng ý giao con Đặng Trần Anh D, sinh ngày 19/9/200A cho anh Đặng Tuấn H nuôi dưỡng đến khi con thành niên. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm này thấy rằng, thẩm phán và các thành viên khác của Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật. Về hướng giải quyết vụ án: Do quá trình chung sống hai bên đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, chị Phượng hiện phải chấp hành bản án hình sự với mức án 21 năm tù, tình cảm vợ chồng không còn, anh H xin ly hôn chị P đồng ý nên căn cứ vào Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho anh Đặng Tuấn H được ly hôn chị Trần Thị P. Về con chung, do anh H và chị P nhất trí để anh H nuôi con và cháu Đặng Trần Anh D cũng xin được ở với bố nên căn cứ vào các điều 81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị giao con cho anh H nuôi. Việc cấp dưỡng do hai bên tự thỏa thuận.Về tài sản chung hai bên không có nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận xét:

 [1] Theo đơn khởi kiện được xác nhận tại nơi cư trú thể hiện: Chị Trần Thị P hiện đang chấp hành án tại đội 23, phân trại I, Trại giam X.N, Hải Phòng có nơi đăng ký thường trú tại: Số 6/560 T.L, phường V.N, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Căn cứ các điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

 [2] Tại phiên tòa, các bên đương sự đều có đơn xin xét xử vắng mặt hợp lệ. Bởi vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Đặng Tuấn H và chị Trần Thị P kết hôn do hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 22/7/2008 tại Ủy ban nhân dân phường Dư Hàng, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, cả hai bên đều khai nhận vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn từ năm 2009 và đã sống ly thân từ đó đến nay, hơn nữa chị P hiện đang phải chấp hành bản án hình sự 21 năm tù. Gia đình hai bên đều xác nhận quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, từ năm 2009 đến nay hai bên không sống cùng nhau. Qua đó cho thấy: Mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ vào Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu và xử cho anh Đặng Tuấn H ly hôn chị Trần Thị P.

 [4] Về con chung: Vợ chồng có 01 con là Đặng Trần Anh D, sinh ngày 19/9/200A. Ly hôn anh H đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được nuôi con và chị P cũng đồng ý. Xét thực tế chị P chưa có điều kiện trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con, cháu D đang ở với bố ổn định và có đơn xin được ở với bố. Do vậy căn cứ các điều 81,82,83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của anh H, chị P, giao con cho anh H trực tiếp nuôi. Việc cấp dưỡng nuôi con do hai bên tự giải quyết.

 [5] Về tài sản chung: Hai bên cùng xác nhận không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

 [6] Về án phí: Anh H phải nộp 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51,56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm2014; căn cứ vào các điều 28, 147, 227, 228 và 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Đặng Tuấn H được ly hôn chị Trần Thị P.

- Về con chung: Xử giao con Đặng Trần Anh D, sinh ngày 19/9/200Acho anh H trực tiếp nuôi cho đến khi con  đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con do hai bên tự giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Anh Đặng Tuấn H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này anh H đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân theo biên lai thu tiền số 0012904 ngày 13- 12-2018.

Đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.hì 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

451
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ ngày 26/03/2019 về ly hôn

Số hiệu:07/2019/HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về