Bản án 07/2018/HS-ST ngày 29/01/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 07/2018/HS-ST NGÀY 29/01/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Đắk Nông xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 82/2017/TLST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2017; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2018/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Công T, sinh ngày 28/02/1981 tại tỉnh Thái Nguyên; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm T, xã H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Nơi cư trú: Thôn M, xã D, huyện S, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Công T1 (đã chết) và con bà Hoàng Thị V; có vợ là Nông Thị T và có 01 con sinh năm 2011; nhân thân: Ngày 18/7/2000, bị TAND huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt tù; Ngày 17/4/2012  bị TAND huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông xử phạt 05 tháng tù về tội “Đánh bạc”, đã chấp hành xong hình phạt tù; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/9/2017 đến nay - có mặt.

Bị hại: chị Thị H, sinh ngày 30/01/ 2003-có mặt.

Địa chỉ: Bon Bu Rwah, xã Đắk N’Drung, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

Ngưi đại diện hợp pháp cho chị Thị H: ông Điểu H và bà Thị L (là cha mẹ đẻ chịThị H) –đều có mặt.

Địa chỉ: Bon R, xã D, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Lương Minh T, sinh năm 1993- vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 2, xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

Người tham gia tố tụng khác:

Ngưi làm chứng: chị Thị Hờ T-có mặt.

Địa chỉ: Bon R, xã D, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 02 tháng 9 năm 2017, Vũ Công T đi xe máy kiểu Dream (không rõ biển kiểm soát) từ nhà ở thôn R, xã D qua xã N, huyện S để chơi. Vũ Công T ghé đổ xăng ở cây xăng D (thôn 7, xã D, huyện S, tỉnh Đắk Nông) rồi đi ra đường thì thấy đi phía trước xe của T là cháu Thị H và bạn là chị Thị Hờ T cùng trú tại bon R, xã D, huyện S đang khoác tay nhau đi bộ cạnh lề đường, cùng chiều với T (theo hướng từ xã D đi ra Thị trấn A). Cháu Thị H đi phía trong, còn chị Thị Hờ T đi phía ngoài sát lề đường bên phải. Tâm quan sát thấy túi quần Jean phía sau, bên trái của cháu Thị H có để 01 điện thoại hiệu INTEX, màu trắng-xám nhô lên nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại này. T chạy xe bám theo, đến đoạn đường thuộc Bon R, xã D, huyện S, khi cách cháu Thị H khoảng 10m thì điều khiển xe chạy chậm lại, áp sát cháu Thị H, tay phải vẫn cầm tay ga xe máy, chồm người, dùng tay trái giật lấy điện thoại của cháu Thị H phía sau túi quần. Thấy vậy, cháu Thị H và Thị Hờ T dùng tay nắm lấy phần đuôi sau xe của T nhưng bị T tăng ga và chạy thoát dẫn đến cháu Thị H và Thị Hờ T ngã xuống đường, tay Thị H đập vào đá trên đường bị xây xát, cháu Thị Hờ T không bị thương tích. T tiếp tục chạy xe về chợ thôn 2, xã N chơi bida khoảng 01 tiếng đồng hồ. Sau đó, T mang điện thoại chiếm đoạt được đến tiệm cầm đồ Huy H của anh Lương Minh T nói tên là H1 và điện thoại của mình. T cầm điện thoại nói trên được 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng) rồi mang đi tiêu xài cá nhân hết.

Tại biên bản định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 57/HĐ-ĐG ngày 30 tháng 11 năm 2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện S kết luận: giá trị thành tiền của 01 điện thoại di dộng hiệu INTEX, màu trắng-xám mà Vũ Công T chiếm đoạt của cháu Thị H tại thời điểm ngày 02/9/2017 là 1.080.000 đồng (một triệu không trăm tám mươi ngàn đồng).

Tại bản Cáo trạng số 04/Ctr-VKS ngày 21/12/2017 của VKSND huyện S đã truy tố bị cáo Vũ Công T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (gọi tắt BLHS năm 1999).

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện VKSND huyện S giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Vũ Công T  về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 BLHS năm 1999. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trác nhiệm hình sự, đại diện VKS đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng d khoản 2 Điều 136, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g, h khoản 1 Điều 48; Điều 33 BLHS năm 1999, xử phạt bị cáo Vũ Công T từ 04 năm đến 05 năm tù giam.

Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 42 BLHS năm 1999; Điều 590 BLDS- chấp nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo với gia đình người bị hại, buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 2.000.000đ.

Anh Lương Minh T có đơn không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không đề cập giải quyết.

Về vật chứng của vụ án:

Áp dụng khoản 2 Điều 41 BLHS 1999; điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS, đề nghị chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện S trả lại 01 điện thoại di dộng hiệu INTEX, màu trắng-xám cho chị Thị H.

Áp dụng điểm b khoản 1 điều 41 BLHS năm 1999, khoản 3 điều 106 BLTTHS- đề nghị truy thu của Vũ Công T số tiền 500.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Tại phiên tòa sơ thẩm  bị cáo Vũ Công T không  bào chữa gì mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt;  bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiêntòa, bị cáo người bị hại không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Do ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền tiêu xài một cách nhanh chóng mà không phải bỏ công sức lao động chính đáng của mình nên vào khoảng10 giờ ngày 02 tháng 9 năm 2017, Vũ Công T đã sử dụng xe mô tô không rõ biển kiểm soát (là dùng thủ đoạn nguy hiểm) thực hiện hành vi cướp giật 01 điện thoạidi động INTEX, màu trắng-xám trị giá 1.080.000 đồng của chị Thị H tại đoạnđường thuộc Bon R, xã D, huyện S, tỉnh Đắk Nông, giá trị tài sản bị chiếm đoạt là1.080.000đ.

Hành vi của bị cáo Vũ Công T đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 BLHS năm 1999; Việc VKSND huyện Đắk Song truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 BLHS năm 1999 là có căn cứ pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:

“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a)... ;

....

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

[3] Xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội , ñaõ xaâm phaïm đến tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án kết án về các tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Đánh bạc” tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, đối với bị cáo cần áp dụng mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.  Tại phiên tòa, bị cáo và gia đình bị hại đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999. HĐXX sẽ xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện tính khoan hồng và nhân đạo của pháp luật nhà nước ta.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội đối với chị Thị H lúc chị Huyền 14 tuổi 07 tháng 02 ngày. Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội đối với trẻ em, được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 48BLHS năm 1999.

[6] Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. HĐXX xét thấy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt dưới mức hình phạt thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị mới phù hợp.

Đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS, HĐXX nhận thấy: Tại bản án số11/HSST ngày 18/7/2000, TAND huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn xử phạt  bị cáoVũ Công T 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng đến nay vẫn chưa chấp hành xong phần bồi thường thiệt hại cho bịhại.  Đây là phần thi hành án theo yêu cầu của người được yêu cầu. Tuy nhiên, thờihiệu yêu cầu thi hành dân sự đã hết, bị hại trong vụ án cũng thừa nhận chưa yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại. Do đó, bị cáo không bị coi chưa chấp hànhxong bản án và không bị coi là tái phạm để tính tiền án cho bị cáo. Nên HĐXXkhông chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát về việc áp dụng điểm g khoản 1 Điều48 BLHS năm 1999 cho bị cáo.

[7] Về bồi thường thiệt hại: tại phiên tòa, bị cáo và gia đình bị hại thỏa thuận bồi thường thiệt hại số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Xét thấy, việc thỏa thuận giữa bị cáo và gia đình bị hại là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên HĐXX chấp nhận. Buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Vũ Công T có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên HĐXX không có căn cứ để áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại di dộng hiệu INTEX, màu trắng-xám, cơ quan CSĐTcông an huyện S đã trả lại cho chị Thị H là phù hợp nên chấp nhận.

Đối với số tiền 500.000đ, bị cáo được hưởng lợi từ việc cướp giật tài sản, cần truy thu để sung quỹ Nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô không biển kiểm soát mà bị cáo sử dụng vào việc phạm tội thì Tâm đã bán cho một người tên T2 (không rõ nhân thân lai lịch) nên chưa thu hồi. Việc cơ quan CSĐT công an huyện Đăk Song đã tách ra để tiếp tục xác minh truy tìm là có căn cứ và phù hợp nên chấp nhận.

[10] Đối với hành vi của Lương Minh T đã nhận cầm cố chiếc điện thoại di động mà bị cáo đã chiếm đoạt, khi cầm cố anh Lương Minh T không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên không đặt ra vấn đề xử lý là phù hợp.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Công T phạm tội “Cướp giật tài sản ”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm h khoản 1 Điều 48 của BLHS năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Công T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 04/9/2017.

2. Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 42 BLHS năm 1999; Điều 590 BLDS, chấp nhận việc thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa bị cáo và bị hại, buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền cònphải thi hành án theo mứclãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 41 BLHS năm 1999; căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS- Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã trả lại 01 điện thoại di dộng hiệu INTEX, màu trắng-xám cho chị Thị H là chủ sở hữu hợp pháp.

Truy thu của bị cáo Vũ Công T  số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.  Buộc bị cáo Vũ Công T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án hợp lệ.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự cóquyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành ánhoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2018/HS-ST ngày 29/01/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:07/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về