Bản án 07/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 07/2018/HS-ST NGÀY 06/02/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 02 năm 2018, tại Toà án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2018/TLST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2018/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Hoàng Văn T - sinh ngày: 10/10/1977; nơi ĐKHKTT: xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nơi ở hiện nay: Thôn 10, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Văn T1 (đã chết) và bà: Hồ Thị H - sinh năm: 1950; có vợ: Phạm Thị H1 - sinh năm: 1981; có 02 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án số 43/2010/HSST ngày 15/7/2010 của TAND huyện Tĩnh Gia, bị xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội "Cưỡng đoạt tài sản"; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/11/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Tào Văn T2 - Sinh năm: 1983

Nơi ĐKHKTT: Phố B, thị trấn G, huyện S, tỉnh Thanh Hóa

Chỗ ở hiện nay: Thôn H, xã M, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; "vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt"

- Người có quyền lợi liên quan đến vụ án: Anh Hoàng Văn T3 - sinh năm: 1992

Trú tại: Thôn 10, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; "vắng mặt"

- Người làm chứng:

+ Chị Phạm Thị H1 - sinh năm: 1981

Trú tại: Thôn 10, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hoá; "vắng mặt"

+ Chị Nguyễn Thị Thiên T4 - sinh năm: 1996

Trú tại: Thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hoá; "vắng mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07h00’ ngày 4/11/2017, Hoàng Văn T điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu Cam - đen - bạc, BKS: 36C1 - 283.xy thuộc sở hữu của anh Hoàng Văn T3, sinh năm 1992 ở thôn 10, xã T, huyện T (là em trai T) từ nhà đến khu vực Công trường thuộc dự án Trung tâm Thương mại dịch vụ A ở thôn H, xã M, huyện T. Khi đi đến khu vực Lán ở của công nhân tại Ban chỉ huy công trường Công ty cổ phần xây dựng M, T dựng xe máy ở ngoài đường và đi vào trong lán xin hút thuốc lào. Khi vào bên trong thấy khu vực Lán không có người, có một phòng chỉ khép cửa mà không khóa, trong phòng không có ai, T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên đi vào trong phòng thì thấy 01 (một) chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, loại Inspiron 15.300 series màu đen, bản Corei5 của anh Tào Văn T2, sinh năm 1983 ở phố B, thị trấn G, huyện S đang để trên bàn, T lấy chiếc máy tính cất giấu vào trong áo đang mặc rồi đi ra ngoài. Sau khi lấy được tài sản, T đi ra ngoài đường lấy xe máy và đi về thôn 6, xã T, huyện T, T giấu chiếc máy tính trộm cắp được ở trong một ngôi nhà bỏ hoang và đi về nhà. Đến 08h30’ ngày 6/11/2017, do nhận thức được hành vi phạm tội của mình, T đã đến cơ quan CSGT Công an huyện Tĩnh Gia đầu thú, giao nộp lại tài sản đã trộm cắp và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 15/11/2017, chị Phạm Thị H1, sinh năm 1981, trú tại thôn 10, xã T, huyện T (là vợ T) giao nộp: 01 chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu Cam đen bạc, BKS: 36C1 - 283.xy.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 136/KLĐGTS ngày 08/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tĩnh Gia, xác định: Chiếc máy tính xách tay hiệu DELL, loại Inspiron 15.300 series màu đen, bản Corei5, có giá trị 6.000.000đ (Sáu triệu đồng).

Về vật chứng: Ngày 29/11/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện Tĩnh Gia đã xử lý vật chứng bằng hình thức: Trả lại cho anh Tào Văn T2 01 (một) chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, loại Inspiron 15.300 series màu đen, bản Corei5 và trả lại cho anh Hoàng Văn T3 01 (một) chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu Cam - đen - bạc, BKS: 36C1 - 283.xy (anh T3 để xe ở nhà, T đã đến lấy xe đi, anh T3 không biết T dùng xe của mình để trộm cắp).

Bản cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 05/01/2018 của VKSND huyện Tĩnh Gia đã truy tố Hoàng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát đề nghị:

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo Hoàng Văn T.

- Mức hình phạt mà VKS đề nghị xử phạt đối với bị cáo Hoàng Văn T là từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 06/11/2017). Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan CSĐT Công an huyện Tĩnh Gia đã trả lại cho anh Tào Văn T2 01 (một) chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, loại Inspiron 15.300 series màu đen, bản Corei5 và trả lại cho anh Hoàng Văn T3 01 (một) chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu Cam - đen - bạc, BKS: 36C1 - 283.xy. Anh T2 và anh T3 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên đề nghị HĐXX không xem xét.

- Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Văn T.

- Trách nhiệm chịu án phí đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Cơ quan Công an huyện Tĩnh Gia, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tĩnh Gia, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà sơ thẩm công khai hôm nay, bị cáo Hoàng Văn T đã khai nhận: Khoảng 07h00’ ngày 04/11/2017 tại Lán ở của công nhân thuộc Ban chỉ huy công trường Công ty cổ phần xây dựng M thuộc thôn H, xã M, huyện T, Hoàng Văn T đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL của anh Tào Văn T2 cã gi¸ trÞ 6.000.000® (Sáu triÖu ®ång).

Tại phiên toà hôm nay, đại diện VKSND huyện Tĩnh Gia thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở kết luận Hoàng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo là người có đủ năng lực về mọi mặt để nhận thức được “Trộm cắp tài sản” là hành vi vi phạm pháp luật và là tội phạm. Song, do lười biếng, muốn hưởng thụ mà lại không chịu lao động nên bị cáo đã bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Giá trị tài sản mà bị cáo trộm cắp là 6.000.000đ (Sáu triệu đồng) đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà còn làm ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do đó, việc đưa bị cáo ra xét xử buộc phải chịu một hình phạt là cần thiết và cần phải có đường lối xử lý tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, HĐXX thấy rằng:

Năm 2010, bị cáo đã từng bị xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội "Cưỡng đoạt tài sản", đến nay tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo không tự rút ra bài học cho mình để tu dưỡng và cải tạo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội. Lần này, bị cáo lại phạm tội "Trộm cắp tài sản". Điều đó thể hiện tính chất nguy hiểm của người phạm tội, chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật, việc cho bị cáo cải tạo tại địa phương không đủ để cải tạo và giáo dục bị cáo. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, đó là:

- Tiền án, tiền sự: Không;

- Tình tiết tăng nặng: Không có;

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo; sau khi phạm tội, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên bị cáo đã đến Cơ quan điều tra đầu thú, khai nhận hành vi của mình và giao nộp tài sản đã trộm cắp; người bị hại đã nhận lại tài sản đồng thời có đơn đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có bố là thương binh và được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Do đó, bị cáo được hưởng hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, p khoản 1 và  03 (ba) tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét ở địa phương gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo, cũng như cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để lên cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội nhưng nghĩ cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo và giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt.

[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an huyện Tĩnh Gia đã trả lại cho anh Tào Văn T2 01 (một) chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, loại Inspiron 15.300 series màu đen, bản Corei5 và trả lại cho anh Hoàng Văn T3 01 (một) chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX, màu Cam - đen - bạc, BKS: 36C1 - 283.xy. Anh T2 và anh T3 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo (theo quyết định số 88/QĐ-UBND ngày 01/01/2018 của UBND xã T về Công nhận hộ nghèo năm 2018). Do đó, HĐXX quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1, 03 (ba) tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 và Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999;

- Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

- Xử phạt: Hoàng Văn T 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 06/11/2017). Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Án phí: Áp dụng các Điều 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23; mục 1 phần I Danh mục án phí, lệ phí Tòa án - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Hoàng Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt người bị hại và người có quyền lợi liên quan đến vụ án tại phiên tòa. Tuyên bố bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, những người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2018/HS-ST ngày 06/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:07/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tĩnh Gia (cũ) - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về