Bản án 07/2018/HNGĐ-ST ngày 07/02/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 07/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/02/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 341/2017/TLST- HNGĐ, ngày 03 tháng 10 năm 2017, về “Ly hôn, Tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 341/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2017; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2017/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị Diệu L - sinh năm: 1991. (Có mặt).

2. Bị đơn: Ông Lê Thanh N - sinh năm: 1985. (Vắng mặt lần hai không có lý do).

Cùng trú tại: Số 262 đường Â, tổ 62 mới (49A cũ), phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện gửi đến Tòa án, cũng như quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa bà Phan Thị Diệu L trình bày:

+ Về quan hệ hôn nhân: Tôi và ông Lê Thanh N xây dựng gia đình vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. 

Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại gia đình chồng số 262 đường Â, tổ 49A, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. Vợ chồng chung sống đến đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông N thường xuyên gây sự chửi bới và đánh đập vợ, quan điểm sống và các vấn đề khác không đồng thuận dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn kéo dài làm cho tình trạng vợ chồng ngày càng trầm trọng, nhiều lần tôi đã gửi đơn ly hôn đến Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu nhưng vì con còn nhỏ nên đã rút đơn ly hôn thể hiện tại Quyết định đình chỉ số 33/2017/HNGĐ-ST ngày 19/5/2017 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu. Tuy nhiên, tình trạng vợ chồng vẫn không cải thiện được nên từ giữa năm 2016 cho đến nay tôi và ông N đã sống ly thân, tôi và con về sống tại nhà cha mẹ ruột tại tổ 02, thôn Vân Dương, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Nay tôi nhận thấy không thể duy trì hôn nhân được nữa, xác định vợ chồng không còn tình cảm và yêu cầu giải quyết cho tôi được ly hôn với ông Lê Thanh N.

+ Về quan hệ con chung: Có 01 con chung: Lê Thanh Tùng - sinh ngày: 06/7/2013. Ly hôn tôi xin nuôi con và không yêu cầu ông N đóng góp cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

* Bị đơn ông Lê Thanh N đã đƣợc triệu tập hợp lệ nhƣng không đến Tòa án để giải quyết quan hệ hôn nhân và cũng không có ý kiến phản hồi.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng có quan điểm:

+ Về thủ tục tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng pháp luật tố tụng.

Các đương sự gồm: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án để giải quyết quan hệ hôn nhân và không có ý kiến phản hồi do đó chưa tuân thủ các quy định tại các Điều 70, 72, 234 của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56 luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà Phan Thị Diệu L xin ly hôn đối với ông Lê Thanh N.

Về quan hệ con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà Phan Thị Diệu L về việc giao con chung Lê Thanh Tùng - sinh ngày: 06/7/2013 cho bà Ly trực tiếp nuôi dưỡng, ông Nhàn không đóng góp cấp dưỡng nuôi.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà Phan Thị Diệu L xác định không có và không nợ ai nên không đề cập đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, qua lời trình bày của nguyênn đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Lê Thanh N được Tòa án triệu tập hợp lệnhiều lần đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa vắng mặt. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt ông N.

[2] Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Diệu L và ông Lê Thanh N kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn ở Uỷ ban nhân dân phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới.

Theo bà L sau khi kết hôn vợ chồng sống tại gia đình chồng tại địa chỉ số262 đường Â, tổ 49A, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. Vợ chồng chung sống đến đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông N thường xuyên gây sự chửi bới và đánh đập vợ, quan điểm sống và các vấn đề khác không đồng thuận dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, nhiều lần bà L đã gửi đơn xin ly hôn lên Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu nhưng vì con còn nhỏ nên bà đã rút đơn ly hôn thể hiện tại Quyết định đình chỉ số 33/2017/HNGĐ-ST ngày 19/5/2017 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu. Tại phiên tòa, bà xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng đã kéo dài, tình trạng vợ chồng ngày càng trầm trọng, vợ chồng sống ly thân từ giữa năm 2016 cho đến nay nên không còn tình cảm và yêu cầu giải quyết được ly hôn với ông N.

Hội đồng xét xử xét thấy: Giữa bà L và ông N có cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẩn vợ chồng đã đến mức độ trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Nguyên nhân là do ông N chửi bới và đánh đập bà L, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, hiện nay sống ly thân. Bà L đã nhiều gửi đơn xin ly hôn thể hiện tại Quyết định đình chỉ số 33/2017/HNGĐ-ST ngày 19/5/2017 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu. Qua đó, chứng tỏ tình trạng hôn nhân của bà L và ông N đã đến mức trầm trọng. Trong quá trình giải quyếtquan hệ hôn nhân, Tòa án cũng đã tống đạt các văn bản theo thủ tục tố tụng dân sự cho ông N nhưng ông N không đến để giải quyết quan hệ tình cảm vợ chồng, điều đó chứng tỏ rằng ông N cũng không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà L đối với ông N là có căn cứ phù hợp với các Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

+ Về quan hệ con chung: Có 01 con chung: Lê Thanh Tùng - sinh ngày:06.7.2013. Ly hôn, bà Phan Thị Diệu L xin nuôi con và không yêu cầu ông N đónggóp cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện nay cháu Lê Thanh Tùng đang do bà L trực tiếp nuôi dưỡng nên việc bà L có nguyện vọng nuôi con là phù hợp với các Điều81, 82 Luật hôn nhân và gia đình. Do đó, chấp nhận yêu cầu của bà L về việc giao con cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng.

Còn việc cấp dưỡng nuôi con do bà L không yêu cầu ông N đóng góp cấpdưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

+ Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà Phan Thị Diệu L xác định không có và không nợ ai nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng), bà Phan Thị Diệu L phải chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu số 0000517 ngày 29/9/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

* Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Các Điều 51; 56; 81; 82 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận đơn khởi kiện về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi concủa bà Phan Thị Diệu L đối với ông Lê Thanh N.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Phan Thị Diệu L và ông Lê Thanh N.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Lê Thanh Tùng - sinh ngày:06.7.2013 cho bà Phan Thị Diệu L trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Lê Thanh N không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con.

Quyền và nghĩa vụ đối với con chung các bên đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật.

3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có.

4. Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng), bà Phan Thị Diệu L phải chịu được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu số 0000517 ngày 29/9/2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

5. Quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án: Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn có quyền kháng bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) kết quả xét xử tại nơi cư trú.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2018/HNGĐ-ST ngày 07/02/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:07/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về