Bản án 07/2017/HNGĐ-ST ngày 18/07/2017 về tranh chấp ly hôn giữa chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Văn L

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 07/2017/HNGĐ-ST NGÀY18/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA CHỊ BÙI THỊ V VÀ ANH NGUYỄN VĂN L

Ngày 18 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Quy Hậu, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình, Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 96/2017/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2017 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2017/QĐXX-ST ngày 03 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị V, sinh năm 1973.

Nơi cư trú: Khu B, thị trấn M, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1966. Nơi cư trú: thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, nguyên đơn là chị Bùi Thị V trình bày: chị và anh Nguyễn Văn L chung sống với nhau như vợ chồng từ một cách tự nguyện từ năm 1989. Do không hiểu biết về pháp luật nên chị V và anh L không đăng ký kết hôn. Cuộc sống chung một thời gian sau đó nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do hai người bất đồng với nhau về quan điểm, tính cách và lối sống và đã ly thân nhau từ năm 1996 đến nay. Quá trình sống ly thân hai người cũng không còn quan tâm đến nhau; bỏ mặc ai muốn sống thế nào cũng được. Trong thời gian này chị V đã đi lao động xuất khẩu tại Đài Loan – Trung Quốc (đến đầu năm 2017 thì về Việt Nam), còn anh L ở tại Việt Nam và có cuộc sống riêng. Nay chị Bùi Thị V thấy rằng tình nghĩa vợ chồng không có nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn L.

Phía anh Nguyễn Văn L khai nhận tình trạng vợ chồng anh đúng như chị Bùi Thị V đã khai. Anh L xác nhận cuộc sống chung của hai người không thật sự hạnh phúc, nay đây mai đó. Anh chị đã ly thân thời gian dài và cảm nhận tình cảm hai người không còn, thừa nhận hai người không có đăng ký kết hôn mà chỉ tự nguyện chung sống và cũng không có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương. Do vậy chị V xin ly hôn thì anh L xin tùy pháp luật giải quyết, anh không có ý kiến gì.

Về con chung: Chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Văn L có 02 con chung là Nguyễn Thị M, sinh ngày 08/10/1989 và Nguyễn Tiến T, sinh ngày 14/5/1996. Hiện nay cả hai con chung đều đã lập gia đình riêng nên cả chị V và anh L đều không có ý kiến gì về con chung.

Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Cả chị Bùi Thị V và anh Nguyễn

Văn L đều xác nhận là không có và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Hiện nay anh Lưu đang cư trú ở thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh và đã cùng chị V thỏa thuận bằng văn bản lựa chọn Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình giải quyết vụ án. Anh Nguyễn Văn L cũng đã có đơn đề nghị được vắng mặt khi Tòa hòa giải, xét xử vụ án. Chị Bùi Thị V cũng có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải.

Tại phiên tòa, chị Bùi Thị V giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn L. Phía anh L vắng mặt có đơn xin vắng nên Hội đồng xét xử xác nhận yêu cầu của anh tại phiên tòa như bản khai anh đã trình bày.

Kiểm sát viên tại phiên tòa nhận định về tố tụng: Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Về nội dụng vụ án: do chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Văn L chung sống không có đăng ký kết hôn nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Văn L không phải là vợ chồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Anh Nguyễn Văn L có nơi cư trú tại huyện H, tỉnh Hà Tĩnh và chị Bùi Thị V có nơi cư trú tại huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Trước khi khởi kiện, giữa chị V và anh L đã có thỏa thuận bằng văn bản về việc lựa chọn Tòa án giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Văn bản có sự xác nhận của chính quyền địa phương cả hai nơi anh L, chị V cư trú. Do đó xác nhận sự thỏa thuận là tự nguyện và việc Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình giải quyết vụ án là đúng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, sau khi anh Nguyễn Văn L nhận được thông báo thụ lý vụ án đã có bản khai và có đơn xin vắng mặt khi Tòa án hòa giải và khi xét xử nên vụ án không tiến hành hòa giải được (chị V cũng có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải) theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự và việc Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh L là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

 [2] Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: xét chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Văn L chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn từ năm 1989. Cuộc sống chung của chị V, anh L tuy có con chung nhưng cuộc sống không có hạnh phúc; đã sống ly thân từ năm 1996 đến nay. Hơn nữa chị V và anh L không có đăng ký kết hôn mặc dù từ Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản pháp luật hướng dẫn bắt buộc phải đăng ký kết hôn (vì chung sống sau năm 1987). Theo quy định tại điểm b, c khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10, ngày 09/6/2000 của Quốc hội đã quy định “b). Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003. Và: “c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng”. Như vậy, trường hợp của chị V và anh L thời hạn phải đăng ký kết hôn cuối cùng là vào ngày 01/01/2003. Đến nay chị V và anh L vẫn chưa đăng ký kết hôn và theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo quy định của luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”. Do vậy quan hệ giữa chị V và anh L không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

 [3] Về con chung: Xác nhận chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Văn L quá trình chung sống có 02 con chung là Nguyễn Thị M, sinh ngày 08/10/1989 và Nguyễn Tiến T, sinh ngày 14/5/1996. Đến thời điểm xét xử, các con chung của chị V và anh L đã trưởng thành (trên 18 tuổi), đã có gia đình riêng và cả chị V, anh L đều không có ý kiến gì về việc nuôi con, các con chung không mất năng lực hành vi dân sự nên không thuộc trường hợp phải cấp dưỡng.

 [4] Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Cả anh chị V và anh L đều thừa nhận không có nên Tòa án xác nhận là không có.

Chị Bùi Thị V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b, c khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1. Không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Văn L; chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Văn L không phải là vợ chồng.

2. Về con chung: Công nhận chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Văn L có 02 con chung là Nguyễn Thị M, sinh ngày 08/10/1989 và Nguyễn Tiến T, sinh ngày 14/5/1996. Hiện nay các con chung đã trưởng thành, không mất năng lực hành vi dân sự nên chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Văn L không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4. Án phí: Chị Bùi Thị V phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0001419 ngày 26 tháng 6 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc; chị Bùi Thị V đã nộp xong án phí.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2017/HNGĐ-ST ngày 18/07/2017 về tranh chấp ly hôn giữa chị Bùi Thị V và anh Nguyễn Văn L

Số hiệu:07/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Lạc - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về