Bản án 17/2017/HNGĐ-PT ngày 27/07/2017 về  tranh chấp chia tài sản khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 17/2017/HNGĐ-PT NGÀY 27/07/2017 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Trong ngày 27 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 14/2017/TLPT- HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2017 về việc “Tranh chấp chia tài sản khi ly hôn”

Do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 17/2017/HNGĐ-ST ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện H bị kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 17/2017/QĐPT-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Phạm Thị N, sinh năm 1967

Cư trú tại địa chỉ: Tổ 3, ấp T, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước (có mặt)

- Bị đơn: Ông Lê Ngọc C, sinh năm 1968

Cư trú tại địa chỉ: Tổ 3, ấp T, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phạm Hoa X, sinh năm 1964

Cư trú tại địa chỉ: Tổ 2, khu phố B, phường C, thị xã D, tỉnh Bình Phước (vắng mặt)

- Viện kiểm sát kháng nghị:Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 17 tháng 10 năm 2016, Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước thụ lý vụ án hôn nhân gia đình tranh chấp về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con và chia tài sản chung khi ly hôn giữa nguyên đơn bà Phạm Thị N và bị đơn ông Lê Ngọc C. Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 14 tháng 12 năm 2016 bà Phạm Hoa X (chị gái ruột của bà N) có đơn yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà N và ông C có trách nhiệm trả nợ chung cho bà X số tiền vay 60 triệu đồng. Ngày 29/12/2016, Tòa án nhân dân huyện H đã có Giấy báo nộp tiền tạm ứng án phí số 416/GB-TA thông báo cho bà X nộp số tiền tạm ứng án phí là 1.500.000 đồng đối với yêu cầu độc lập trên nhưng bà X không thực hiện. Tuy nhiên, Tòa cấp sơ thẩm không trả lại đơn yêu cầu độc lập cho bà X mà vẫn giải quyết yêu cầu của bà X buộc bà N và ông C mỗi người phải trả cho bà X số tiền 30.000.000đồng; đồng thời buộc bà N, ông C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch mỗi người 1.500.000 đồng.

Tại Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 17/2017/HNGĐ-ST ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện H đã quyết định xử cho ly hôn giữa bà Phạm Thị N và ông Lê Ngọc C, về nuôi con, đồng thời quyết định về chia tài sản khi ly hôn và nghĩa vụ chịu án phí dân sự có giá ngạch như sau: “3. Về nợ chung: Buộc bà Phạm Thị N có nghĩa vụ trả cho bà Phạm Hoa X số tiền 30 triệu đồng và buộc ông Lê Ngọc C có nghĩa vụ trả cho bà Phạm Hoa X số tiền 30 triệu đồng.” 4.Về án phí: “…Bà Phạm Thị N phải chịu 1.500.000 đồng án phí dân sự có giá ngạch. Ông Lê Ngọc C phải chịu 1.500.000 đồng án phí dân sự có giá ngạch.”

Ngày 12/5/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã có Quyết định kháng nghị số 04/QĐ/KNPT-VKS kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với một phần của Bản án sơ thẩm nêu trên theo hướng hủy một phần Bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết một phần vụ án, trả lại đơn khởi kiện đối với yêu cầu độc lập của bà Phạm Hoa X (phần nợ chung) và án phí dân sự có giá ngạch.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại phiên toà:Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, kể từ khi thụ lý vụ án và tại phiên toà, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ án thì vẫn giữ nguyên quan điểm và nội dung đã kháng nghị ở trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên toà Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước nhận định như sau:

[1] Vụ án này do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thuộc thẩm quyền giải quyết phúc thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước theo Điều 38 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Tại phiên toà phúc thẩm, mặc dù vắng mặt bị đơn ông Lê Ngọc C và người có quyền lợi liên quan bà Phạm Hoa X nhưng ông C đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt còn bà X thì có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt ông C và bà X theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Bà Phạm Hoa X là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu độc lập yêu cầu bà Phạm Thị N và ông Lê Ngọc C có trách nhiệm trả nợ chung là số tiền vay 60 triệu đồng được bà N và ông C thừa nhận và đồng ý mỗi người trả 30 triệu đồng cho bà X sau khi ly hôn. Yêu cầu độc lập của bà X là thuộc trường hợp bắt buộc phải nộp tạm ứng án phí làm cơ sở để thụ lý, giải quyết nhưng bà X không thực hiện mà vẫn được Toà án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết là không đúng quy định của pháp luật được quy định cụ thể tại các điều 70, 73, 146, 192, 195, 201 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 17, 25 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Do đó, xét thấy cần phải huỷ một phần Bản án và đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của bà Phạm Hoa X về việc yêu cầu bà Phạm Thị N và ông Lê Ngọc C trả nợ chung số tiền vay 60 triệu đồng, trả lại đơn yêu cầu độc lập cho bà Phạm Hoa X; đồng thời sửa phần án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch của Bản án sơ thẩm, không buộc bà N và ông C phải chịu mỗi người 1.500.000 đồng. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật nên được chấp nhận toàn bộ.

[3] Án phí dân sự phúc thẩm: Vụ án này các đương sự đều không có kháng cáo mà chỉ có Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước kháng nghị một phần bản án và kháng nghị được chấp nhận toàn bộ nên theo quy định của pháp luật thì trường hợp này các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

[4] Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tại phiên toà: Thống nhất và giữ nguyên như Quyết định kháng nghị là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào khoản 2, khoản 4 Điều 308,các điều 309, 311, 217,  70, 73, 146, 192, 195, 201 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 17, 25 củaNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước;

- Hủy một phần Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 17/2017/HNGĐ- ST ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước;

Đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của bà Phạm Hoa X về việc yêu cầu bà Phạm Thị N và ông Lê Ngọc C trả nợ chung số tiền vay 60 triệu đồng.

Trả lại đơn yêu cầu độc lập của bà Phạm Hoa X cho bà Phạm Hoa X.

Bà Phạm Hoa X có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác tại Toà án cấp sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

- Sửa một phần của Bản án về phần án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch, bà Phạm Thị N và ông Lê Ngọc C đều không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch mỗi người 1.500.000 đồng.

[2] Án phí dân sự phúc thẩm, các đương sự đều không phải chịu.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

872
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2017/HNGĐ-PT ngày 27/07/2017 về  tranh chấp chia tài sản khi ly hôn

Số hiệu:17/2017/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:27/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về