Bản án 06/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 06/2021/HS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 170/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2020/QĐXXST- HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

TRẦN PHƯỚC T, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 07/11/1985 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ 10 phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 11/12; Nghề nghiệp: Lái xe.

Con ông: Trần Phước H (sinh năm 1964) và bà Nguyễn Thị L (sinh năm 1968); Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai.

Vợ, con: Chưa. Tiền án: Chưa.

Tiền sự: Ngày 04/6/2020 bị Ủy ban nhân dân phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với Trần Phước T về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy” trong thời hạn 3 tháng.

Bị cáo bị tạm giữ/tạm giam ngày 25/9/2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 25/9/2020, Trần Phước T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 43C1- 466.70 đi từ phường Đ, thị xã B, tỉnh Quảng Nam về thành phố Đà Nẵng thì có một người phụ nữ tên Ny (chưa rõ nhân thân, lai lịch) liên lạc qua điện thoại hỏi mua của T nửa hộp năm ma túy đá (khoảng 2,5 gam), T thỏa thuận bán với giá là 1.400.000 đồng và hẹn giao ma túy tại khu vực trước cổng sân bay quốc tế Đà Nẵng. Lúc này, T liên lạc cho người thanh niên tên Hoàng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để mua 1.000.000 đồng ma túy đá thì Hoàng đồng ý và hẹn giao ma túy tại trước khu công nghiệp Đ, tỉnh Quảng Nam. Sau đó, T đến địa điểm hẹn theo sự chỉ dẫn của Hoàng, T lấy gói ma túy đá do Hoàng đặt dưới một gốc cây nhưng chưa trả tiền mua ma túy. T đem gói ma túy đá trên đường đi đến điểm hẹn bán ma túy cho Ny, khi T đi đến trước nhà số 176 đường P, phường C, quận K, thành phố Đà Nẵng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê phát hiện bắt quả tang. Thu giữ tại dưới nền đất gần vị trí T đang đứng có 01 gói nylong kích thước (4x7)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, được niêm phong, ký hiệu G do T vứt xuống đất.

Vào lúc 17 giờ 40 phút ngày 25/9/2020, Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Phước T tại số 51 đường B, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng. Qua khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án.

Ngoài ra, T còn khai nhận cách ngày bị bắt khoảng 01 tuần (không rõ thời gian), T có mua 01 gói ma túy đá giá 1.000.000 đồng của một người tên Phú (chưa rõ nhân thân, lai lịch) ở gần bến cá quận S, thành phố Đà Nẵng (không rõ địa chỉ). Sau đó, T bán gói ma túy này cho người tên Ry (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với giá 1.400.000 đồng tại đường S, thành phố Đà Nẵng (không rõ địa chỉ). Do không thu giữ được ma túy, không xác định được người tên Phú và Ry nên không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Vật chứng tạm giữ:

+ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại cho chị Huỳnh Thị M (sinh năm 1953; HKTT: Tổ 10 phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng) 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh biển kiểm soát 43C1- 466.70. Kết quả xác minh xe do chị M là chủ sở hữu, vào ngày 25/9/2020, T mượn xe mô tô để làm phương tiện đi lại, chị M không biết T sử dụng xe để vi phạm pháp luật.

+ Chuyển sang Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê quản lý trong giai đoạn xét xử những vật chứng và tài sản gồm:

- 01 bì niêm phong đựng toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số 295/GĐ-MT ngày 30/9/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xám, số IMEI: 354802092568857/01, có gắn sim 1: 0934981136, gắn sim 2: 0926167350 thu giữ của Trần Phước T (T sử dụng liên lạc thỏa thuận mua bán ma túy).

- Số tiền 500.000 đồng thu giữ của T (T sử dụng vào mục đích cá nhân).

Bản kết luận giám định số 295/GĐ-MT ngày 30/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylong trong bì niêm phong ký hiệu G gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng tinh thể: 2,407 gam.

Kết quả thử nước tiểu: Trần Phước T dương tính với chất ma túy.

Quá trình điều tra, Trần Phước T khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại Bản Cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 22/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Trần Phước T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị HĐXX căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Trần Phước T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và:

Áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Trần Phước T mức án từ 3 (ba) năm đến 4 (bốn) năm tù giam.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Đối với ma túy trong 01 bì niêm phong đựng toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số 295/GĐ-MT ngày 30/9/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xám, số IMEI: 354802092568857/01, có gắn sim 1: 0934981136, gắn sim 2: 0926167350 thu giữ của Trần Phước T, dùng để liên lạc mua bán ma túy, nên cần tịch thu, sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với số tiền thu giữ 500.000 đồng là tài sản cá nhân của Trần Phước T không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho Trần Phước T nhưng cần tiếp tục quy trữ số tiền để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05 tháng 01 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Thanh Khê và Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê; Biên lai thu tiền số 007504 ngày 07 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Phước T cũng đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, rất ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát quận Thanh Khê, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy: Qua xem xét lời khai nhận tội của bị cáo, cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 13 giờ ngày 25/9/2020 Trần Phước T liên hệ mua 01 gói ma túy đá của Hoàng (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với giá 1.000.000 đồng. Khi T đang trên đường đem ma túy đến bán cho Ny (chưa rõ nhân thân, lai lịch) thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê phát hiện bắt quả tang T có hành vi bán trái phép 2,407 gam ma túy, loại Methamphetamine tại trước nhà số 176 đường P, phường C, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Qua giám định, khối lượng ma túy Trần Phước T tàng trữ để mua bán trái phép là Methamphetamine; khối lượng tinh thể: 2,407 gam.

Hành vi của Trần Phước T đã phạm vào tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 03/CT- VKS ngày 22/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo có tính chất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền trong việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo đủ khả năng nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy đang là tệ nạn của xã hội, là nguyên nhân của các tội phạm khác gây mất an ninh trật tự, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nhưng bị cáo vẫn phạm tội.

Bị cáo T có một tiền sự: Ngày 04/6/2020 bị Ủy ban nhân dân phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với Trần Phước T về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy” trong thời hạn 3 tháng.

Do đó cần phải xét xử nghiêm, hình phạt đối với bị cáo phải thỏa đáng và tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân để bị cáo có điều kiện cải tạo tu dưỡng để trở thành công dân có ích cho xã hội.

Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Phước T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được áp dụng cho bị cáo.

Từ những phân tích trên, xét lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý các vật chứng trong vụ án, cụ thể như sau:

- Đối với ma túy trong 01 bì niêm phong đựng toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số 295/GĐ-MT ngày 30/9/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xám, số IMEI:

354802092568857/01, có gắn sim 1: 0934981136, gắn sim 2: 0926167350 thu giữ của Trần Phước T, dùng để liên lạc mua bán ma túy, nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với số tiền thu giữ 500.000 đồng là tài sản cá nhân của Trần Phước T không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho Trần Phước T nhưng cần tiếp tục quy trữ số tiền để đảm bảo thi hành án.

[5] Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Trần Phước T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Trần Phước T còn có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

[7] Đối với người thanh niên tên Hoàng và Phú đã bán ma túy cho T, người phụ nữ tên Ny và Ry mua ma túy của T nhưng đều chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo của Trần Phước T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Phước T 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25 tháng 9 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:

- Tịch thu, tiêu hủy: ma túy trong 01 bì niêm phong đựng toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn trả sau giám định theo Kết luận giám định số 295/GĐ-MT ngày 30/9/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xám, số IMEI: 354802092568857/01, có gắn sim 1: 0934981136, gắn sim 2: 0926167350 thu giữ của Trần Phước T.

- Trả lại cho Trần Phước T số tiền 500.000 đồng, nhưng cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05 tháng 01 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Thanh Khê và Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê; Biên lai thu tiền số 007504 ngày 07 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về việc “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án” của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Trần Phước T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 14/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về