Bản án 06/2021/HSST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 06/2021/HSST NGÀY 11/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 182/2020/TLST- HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1430/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Hữu Đ, sinh ngày 04 tháng 6 năm 1982, tại Vĩnh Long; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp Phú Sung, xã X, huyện Y, tỉnh H; chỗ ở hiện nay: Không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Làm bếp; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật Giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hữu P và bà Phạm Thị Thanh T; có vợ Hồ Thị Trúc L (đã ly hôn), có một con sinh năm 2010; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 28 tháng 8 năm 2020 tại nhà tạm giữ Công an Quận 1. (có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1978; chỗ ở hiện nay: Ấp 2, xã X, huyện Y, tỉnh H. (vắng mặt) - Ông Phạm Hữu P, sinh năm: 1957; chỗ ở hiện nay: 15B/69 Lê Thánh Tôn, phường X, Quận Y, Thành phố H. (có mặt) Người bào chữa: Ông Nguyễn Xuân Hợp – Luật sư Công ty Luật TNHH BC thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh là người bào chữa cho bị cáo Phạm Hữu Đ. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy, khoảng 01 giờ ngày 28 tháng 8 năm 2020, Phạm Hữu Đ liên lạc với người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch qua số điện thoại 0357652619 hỏi mua ma túy. Sau đấy, Đ điều khiển xe môtô biển số 62P1-092.64 đến khu vực cầu An Sương, Quận 12 để mua từ người đàn ông này 04 gói nylon ma túy tổng hợp với giá 500.000 đồng và 01 gói nylon ma túy tổng hợp với giá 500.000 đồng để sử dụng rồi điều khiển xe về nhà thuê tại khu vực Quận 1. Đến khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày, khi Đ dừng xe tại trước nhà số 70 Nguyễn Trãi, phường Bến Thành, Quận 1 thì bị Công an phường Bến Thành, Quận 1 đi tuần tra phát hiện Đ có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên yêu cầu Đ về Công an phường Bến Thành, Quận 1 để kiểm tra, làm rõ. Qua kiểm tra Đ lấy ra 04 gói nylon chứa tinh thể không màu đựng trong gói giấy bạc từ túi quần phía sau bên trái và 01 gói nylon chứa tinh thể không màu để trong vỏ bao thuốc lá Jet, Đ kẹp trên baga xe, Đ khai là ma túy nên tiến hành thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan điều tra, Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Theo bản kết luận giám định số: 1513/KLGĐ-H ngày 04 tháng 9 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 02 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Hữu Đ và hình dấu Công an phường Bến Thành, Quận 1 bên trong có 04 gói nylon trong 01 gói giấy bạc là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,1555g, loại Methamphetamine và 01 gói nylon trong gói thuốc lá hiệu Jet là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,9255g, loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số: 186/CT-VKSQ1 ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đã truy tố bị cáo Phạm Hữu Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh tụng: Sau khi kiểm tra đầy đủ các chứng cứ buộc tội, gỡ tội và các tình tiết khác của vụ án, bị cáo đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu; chưa có tiền án, tiền sự nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 06 (sáu) năm đến 07 (bảy) năm tù, phạt tiền bị cáo 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 1513/20Q1 (gói 1) chứa chất ma túy bên trong có 2,1555g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine và 01 gói niêm phong ghi vụ số 1513/20Q1 (gói 2) chứa chất ma túy bên trong có 9,9255g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine (mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ công tác giám định).

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo, số Imei 1:

869002031438357, số Imei 2: 869002031438340.

- Trả lại ông Phạm Hữu P 01 xe môtô hiệu Honda Wave, biển số 62P1- 092.64, số khung: RLHJC5213CY031750, số máy: JC52E4037728.

Bào chữa cho bị cáo Đ, ông Nguyễn Xuân H - Luật sư Công ty Luật TNHH BC thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh thống nhất không tranh luận về tội danh, điểm, khoản mà Viện kiểm sát truy tố, chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và chưa có tiền án tiền sự; gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính, bị cáo đã ly hôn vợ đang nuôi con nhỏ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo một hình phạt thấp nhất.

Phần đối đáp đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa giữ nguyên quan điểm. Tại phiên tòa, bị cáo Đ đã khai nhận hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh tụng gì và nói lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, bản tường trình, tờ tự khai, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định,… nên có căn cứ để kết luận bị cáo Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 12,081g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đ đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tại phiên tòa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với quyết tâm cao. Bị cáo đủ nhận thức để biết rõ tác hại của ma túy nhưng vì muốn thỏa mãn động cơ cá nhân nên bất chấp xem thường pháp luật cố tình phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến chế độ quản lý độc quyền về các chất gây nghiện của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác nên cần có mức án nghiêm để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và chưa có tiền án tiền sự; gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính, bị cáo đã ly hôn vợ đang nuôi con nhỏ. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải nộp một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước.

[6] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Đ, quá trình điều tra chưa truy tìm, xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra Công an Quận 1 tiếp tục xác minh làm rõ có cơ sở xử lý sau.

[7] Vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 gói niêm phong ghi vụ số 1513/20Q1 (gói 1) chứa chất ma túy bên trong có 2,1555g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine và 01 gói niêm phong ghi vụ số 1513/20Q1 (gói 2) chứa chất ma túy bên trong có 9,9255g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine (mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ công tác giám định) cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo, số Imei 1: 869002031438357, số Imei 2: 869002031438340 thu giữ của bị cáo Đ. Bị cáo Đ khai dùng để sử dụng mua ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 xe môtô hiệu Honda Wave, biển số 62P1-092.64, số khung: RLHJC5213CY031750, số máy: JC52E4037728 thu giữ của bị cáo Đ. Qua xác minh xe do bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1978, trú tại ấp 2, xã X, huyện Y, tỉnh H đứng tên sở hữu. Bà L xác nhận tháng 6 năm 2020 bà đã bán xe trên cho ông Phạm Hữu P là cha của bị cáo Đ nhưng chưa sang tên đổi chủ theo quy định. Ông Phạm Hữu P khai ngày 28 tháng 8 năm 2020, ông có cho bị cáo Đ mượn xe để sử dụng thì bị bắt, ông P không biết bị cáo Đ sử dụng xe làm phương tiện phạm tội và tại phiên tòa ông P xin được nhận lại xe làm phương tiện đi lại. Xét thấy, việc thu giữ của bị cáo Đ 01 xe môtô hiệu Honda Wave, biển số 62P1-092.64 không liên quan đến vụ án nên cần xem xét để trả lại xe cho ông P.

[8] Về án phí: Bị cáo Đ phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy: Tuyên bố: Phạm Hữu Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; phạt bị cáo Phạm Hữu Đ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28 tháng 8 năm 2020.

Buộc bị cáo Phạm Hữu Đ phải nộp phạt 10.000.000đ (mười triệu đồng) để sung vào công quỹ Nhà nước.

Việc bị cáo Phạm Hữu Đ nộp số tiền phạt nêu trên phải được thực hiện một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 1513/20Q1 (gói 1); 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 1513/20Q1 (gói 2) chứa chất ma túy.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 214/20-PNK ngày 05 tháng 11 năm 2020 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo, số Imei 1: 869002031438357, số Imei 2: 869002031438340.

Trả lại ông Phạm Hữu P 01 (một) xe môtô hiệu Honda Wave, biển số 62P1- 092.64, số khung: RLHJC5213CY031750, số máy: JC52E4037728.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 192/20-PNK ngày 21 tháng 9 năm 2020 của Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Phạm Hữu Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Đối với trường hợp khoản tiền phải thu nộp vào ngân sách Nhà nước mà pháp luật có quy định nghĩa vụ trả lãi thì quyết định kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự; trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo Phạm Hữu Đ, ông Phạm Hữu P có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án. Đối với người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HSST ngày 11/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về