Bản án 06/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 06/2021/HS-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 3 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

BÙI VĂN K, sinh ngày 05 tháng 5 năm 1980 tại Hòa Bình. Nơi cư trú: Xóm C, xã Â, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn N và bà Bùi Thị Y (đã chết); bị cáo có vợ là Bùi Thị H và 02 con, con lớn sinh năm 2004 và con nhỏ sinh năm 2009.

Tiền án: Ngày 22/7/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2008 bị Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự về hành vi “Tạo ra hoàn cảnh buộc người khác đưa tiền”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/10/2020, tạm giam từ ngày 18/10/2020. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Bùi Thị H, sinh năm 1984. Trú tại: Xóm C, xã Â, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến:

Ông Quách Văn S, sinh năm 1963. Trú tại: Xóm C, xã Â, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

Ông Quách Văn L, sinh năm 1961. Trú tại: Xóm C, xã Â, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn K là người thường xuyên sử dụng chất ma túy nên khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 09/10/2020, Tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn phối hợp với Công an xã Â đến nhà K triệu tập, gọi hỏi thì phát hiện 01 gói ma túy tại vị trí K đang ngồi tại nhà. Bùi Văn K bị bắt quả tang người cùng tang vật. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Văn K, cơ quan công an phát hiện và thu giữ 02 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất ma túy; một gói tại giá để đồ trong phòng tắm, một gói tại mặt sàn trong buồng tiếp giáp nhà tắm. Tất cả số ma túy trên bị cáo khai đã dùng xe môtô BKS 28N1-187.xx đi mua được của một người đàn ông không quen biết tại huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa ngày 08/10/2020 với giá 300.000 đồng.

Theo kết luận giám định số 322/KLGĐ-CAT-PC09, ngày 16/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình thì 03 gói chất bột màu trắng thu giữ từ Bùi Văn K trong quá trình bắt quả tang và khám xét khẩn cấp là ma túy, loại Heroine, có tổng khối lượng là 0,16g (Không phẩy mười sáu gam). Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, số thứ tự: 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tang vật thu giữ được tại giai đoạn điều tra gồm: 03 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng là ma túy, loại Heroine. Số lượng còn lại sau giám định là 0,09g. Số tang vật trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án huyện Lạc Sơn chờ xử lý. Đối với chiếc xe môtô BKS 28N1-187.xx là tài sản thuộc sở hữu của vợ bị cáo là bà Bùi Thị H. Khi bị cáo lấy xe đi mua ma túy về sử dụng thì bà H không biết nên Cơ quan điều tra không xử lý và Cáo trạng không đề cập xem xét.

Tại Bản cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 20/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình đã truy tố bị cáo Bùi Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa, Cơ quan điều tra không xác định được nhân dạng, căn cước nên chưa có căn cứ xem xét, xử lý trong vụ án này.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung quyết định truy tố, tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Xác định bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là thành khẩn khai báo; bị cáo là người dân tộc thiểu số và có bố đẻ là người có công theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo do bị cáo là người không có điều kiện về kinh tế. Về vật chứng của vụ án: đề nghị tịch thu, tiêu hủy 0,09g heroine là mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình; không có ý kiến gì về nội dung cáo trạng phản ánh; không kêu oan. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Bùi Thị H khẳng định chiếc xe môtô BKS 28N1-187.xx là tài sản riêng của mình và không biết việc bị cáo lấy chiếc xe trên đi mua ma túy; không có ý kiến gì về việc không xử lý chiếc xe môtô nêu trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên xác định là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử những người tham gia tố tụng không có khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.

[2] Về căn cứ xác định tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo: Ngày 09/10/2020, bị cáo Bùi Văn K đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; đã để cạnh chỗ ngồi của mình tại nhà 01 gói Heroine, để tại giá để đồ trong phòng tắm và sàn nhà cạnh buồng tắm trong nhà mình mỗi nơi 01 gói Heroine với tổng khối lượng là 0,16g (Không phẩy mười sáu gam) Heroine mà không nhằm mục đích vận chuyển, mua bán, sản xuất trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo phù hợp với lời khai người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét khẩn cấp và các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Loại ma túy bị cáo tàng trữ là Heroine có khối lượng nằm trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam. Do vậy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh, điều khoản luật áp dụng là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi của bị cáo: Tội phạm mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất gây nghiện của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương. Bản thân bị cáo là người có nhận thức xã hội, có hiểu biết pháp luật, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhưng lại nghiện chất ma túy, không từ bỏ được ma túy. Ma túy không chỉ làm hại chính bản thân bị cáo về sức khỏe, tài chính mà còn là hiểm họa của xã hội, là nguyên nhân gây suy kiệt giống nòi và là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo có nhân thân xấu; đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi “Tạo ra hoàn cảnh buộc người khác đưa tiền”, đã từng bị xử phạt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân. Do vậy, cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo; cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích và để phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị xử phạt 07 năm tù về hành vi mua bán trái phép chất ma túy và chấp hành xong hình phạt ngày 23/02/2019. Đến ngày 09/10/2020 lại phạm tội (chưa đủ 03 năm) nên bị cáo chưa được xóa án tích theo quy đinh tại điểm c khoản 2 Điều 70 của Bộ luật hình sự 2015. Do vậy, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 của Bộ luật hình sự 2015 và bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng này theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015. Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Ngoài ra, xét bị cáo có bố đẻ là người có công được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, bị cáo là người dân tộc thiểu số. Đây là những tình tiết Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: xét bị cáo là người có thu nhập không ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Vật chứng là phong bì chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình bên trong chứa các chất ma túy (Heroine) là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Văn K 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính ngày tạm giữ 09/10/2020.

3. Về tang vật của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình số 77 ngày 10/10/2020 ghi tên đối tượng Bùi Văn K, bên trong chứa 03 mẫu chất ma túy, loại Heroine còn lại sau giám định.

(Vật chứng hiện đang lưu giữa tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng số 19 và Phiếu nhập kho số NK: 0019 ngày 21/01/2021).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Bùi Văn K phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về