TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG
BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ LY HÔN
Mở phiên tòa ngày 28 tháng 6 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Krông Nô tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 39/2021/TLST-HNGĐ, ngày 23/3/2021, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 24/5/202; Quyết định Hoãn phiên tòa số: 06/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 11/6/2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Dương Danh V, sinh năm 1963. Có mặt. Trú tại: Bon Y, thị trấn Đ, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1962 - Vắng mặt lần thứ 2.
Nơi cư trú cuối cùng: Bon Y, thị trấn Đ, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 24 tháng 2 năm 2021, (nộp trực tiếp tại Tòa án ngày 19 tháng 3 năm 2021) quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Dương Danh V trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ông Dương Danh V và bà Nguyễn Thị H kết hôn năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Krông N, tỉnh Đắk Nông. Việc kết hôn trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc, Sau khi kết hôn ông V và bà H chung sống chỉ được thời gian đầu hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, trong cuộc sống vợ chồng không có sự hòa hợp, thấu hiểu. Đến năm 2014 thì bà H bỏ đi biệt tích, ông V tìm kiếm nhiều nơi nhưng không biết ở đâu. Ông V có làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Krông Nô tuyên bố bà Nguyễn Thị H mất tích. Ngày 28/12/2017 Tòa án nhân dân huyện Krông Nô đã ban hành Quyết định số 05/2017/QĐST-VDS tuyên bố bà Nguyễn Thị H mất tích. Xét tình cảm vợ chồng phai nhạt, bà H mất tích nên ông V yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà Nguyễn Thị H.
Về yêu cầu nuôi con chung: ông V và bà H không có con chung nên không yêu Tòa án giải quyết.
Về yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung: Ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa ông V vẫn giữ nguyên quan điểm ban đầu: Về quan hệ hôn nhân ông V yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà Nguyễn Thị H; về con chung ông V và bà H không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản chung, nợ chung ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và HĐXX: Đã chấp hành đầy đủ theo quy định của pháp luật từ quá trình thụ lý, lập hồ sơ vụ án Thẩm phán đã tiến hành đúng theo quy định của pháp luật. Xác định đúng quan hệ tranh chấp giữa các bên; Tiến hành thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ đến các đương sự. Thẩm phán đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đúng theo quy định. Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng mọi thủ tục, trình tự xét xử theo đúng quy định. Hội đồng xét xử đúng thành phần, thực hiện đúng theo quy định, không có trường hợp nào phải thay đổi người tiến hành tố tụng, Hội đồng xét xử đã hỏi và thu thập chứng cứ đúng theo quy định của pháp luật.
Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ các quy định, quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Bị đơn bà Nguyễn Thị H đã được Tòa án tuyên bố mất tích và Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, tham gia phiên hòa giải. Tại phiên tòa hôm nay, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do, do vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 72, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên bố ông Dương Danh V được ly hôn với bà Nguyễn Thị H; Về con chung: Các đương sự không có con chung nên không xem xét giải quyết; Về tài sản chung, nợ chung: ông V không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
Về án phí: Buộc ông Dương Danh V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả thẩm tra công khai các tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Ông Dương Danh V khởi kiện ly hôn đối với bà Nguyễn Thị H. Vì vậy đây là quan hệ tranh chấp “Ly hôn”. Bà Nguyễn Thị H có nơi cư trú cuối cùng tại Bon Y, thị trấn Đ, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyên Krông Nô theo quy định tại khoản 1 Điều 28;
điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về sự vắng mặt bị đơn bà Nguyễn Thị H: Tại biên bản xác minh của Công an thị trấn Đăk Mâm, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông thể hiện, bà Nguyễn Thị H có nơi cư trú cuối cùng và đăng ký hộ khẩu thường trú tại Bon Y, thị trấn Đ, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông theo hồ sơ KH số 126, số HK 170026728 năm 2013. Tuy nhiên từ năm 2014 đến nay bà H đã bỏ đi biệt tích, trước khi biệt tích bà H không thay đổi nơi cư trú, không thông báo tạm vắng tại địa phương, không thông báo địa chỉ nơi cư trú mới, vì vậy chính quyền địa phương cũng như ông V không biết bà H hiện nay ở đâu, ngày 28/12/2017, Tòa án nhân dân huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông đã ban hành Quyết định số: 05/2017/QĐST-VDS, về việc tuyên bố bà Nguyễn Thị H mất tích, ngày 28/12/2017 xóa hộ khẩu bà H với lý do mất tích..
Khoản 2 Điều 5 và điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP, ngày 05/5/2017 hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
Khoản 2 Điều 5: “Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở” của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.” Điều 6:
“2. Trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì Tòa án giải quyết như sau:
a) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;” Từ các phân tích và dẫn chiếu quy định của pháp luật trên, Tòa án nhân dân huyện Krông Nô thụ lý, giải quyết, đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị H là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: Ông Dương Danh V bà bà Nguyễn Thị H kết hôn với nhau năm 2007 trên tinh thần tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Krông N, tỉnh Đắk Nông. Đây là hôn nhân hợp pháp, kết hôn đúng theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.
Theo lời trình bày của ông V thì ông bà chung sống hạnh phúc được thời gian đầu đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, trong cuộc sống vợ chồng không có sự hòa hợp, thấu hiểu. Đến năm 2014 thì bà H bỏ đi biệt tích, ông V đã tìm kiếm nhiều nơi nhưng không biết ở đâu.
Kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đăk M thể hiện ông V và bà H kết hôn và chung sống với nhau từ năm 2007, đến năm 2014 bà H bỏ đi biệt tích. Việc bà H bỏ đi biệt tích đã được Tòa án nhân dân huyện Krông Nô đã ban hành Quyết định số: 05/2017/QĐST-VDS, ngày 28/12/2017, tuyên bố bà Nguyễn Thị H mất tích.
Tại khoản 2 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình quy định “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn” Hội đồng xét xử xét thấy, vợ chồng có nghĩa vụ chung sống với nhau để quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, chia sẻ với nhau mọi vấn đề trong cuộc sống, việc bà H bỏ đi biệt tích dẫn đến vợ chồng xa cách, không chia sẻ, không quan tâm, chăm sóc được cho nhau, tình cảm vợ chồng không có sự gắn kết yêu thương, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Dương Danh V.
[2.2] Về nuôi con chung: Ông Dương Danh V và bà Nguyễn Thị H không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Ông Dương Danh V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Ông Dương Danh V phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 266, Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 51, Điều 56 và Điều 57 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Danh V.
- Về hôn nhân: Ông Dương Danh V được ly hôn với bà Nguyễn Thị H là người bị tuyên bố mất tích.
- Về nuôi con chung: Ông Dương Danh V và bà Nguyễn Thị H không có con chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về chia tài sản chung và nợ chung: Ông Dương Danh V không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về án phí ly hôn: Ông Dương Danh V phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí mà ông V đã nộp theo biên lai số 0004092 ngày 19/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông.
- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 28/06/2021 về ly hôn
Số hiệu: | 06/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về