Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 22/02/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 94/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2020, Quyết định hoãn phiên toà số 03/2021/QĐST- HNGĐ ngày 22/01/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Bích P, sinh năm 1986 Hộ khẩu thường trú: Tổ 17, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

Chỗ ở hiện nay: Thôn 12, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L (Tên thường gọi G), sinh năm 1982 Địa chỉ: Thôn 4, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/5/2020 của nguyên đơn chị Vũ Thị Bích P và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị P và anh L tự nguyện thuê nhà trọ sống chung với nhau từ tháng 10/2018 đến tháng 8/2019 tại số nhà 109, đường Trần Hưng Đ, tổ 19, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng nhưng không có đăng ký tạm trú. Đến ngày 20/8/2019 chị P và anh L đăng ký kết hôn tại UBND phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, có tổ chức lễ cưới và hai bên gia đình đồng ý. Sau đó hai vợ chồng chuyển đến ở nhà riêng của chị P tại thôn 11, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng để sinh sống từ tháng 9/2019 đến tháng 3/2020 nhưng cũng không có đăng ký tạm trú.

Thời gian đầu vợ chồng sống bình thường, hạnh phúc đôi khi có mâu thuẫn nhưng không đáng kể, từ sau khi vợ chồng đăng ký kết hôn được vài tháng thì vợ chồng thường xuyên cãi vã, chửi bới, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh L không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình. Ngoài ra, anh L không tôn trọng bố mẹ và gia đình chị nên từ tháng 3/2020 cho đến nay chị P và anh L không còn sống chung với nhau nữa, phần ai người ấy sống, vợ chồng không quan tâm chăm sóc đến nhau. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị P yêu cầu xin được ly hôn với anh L.

- Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Nguyễn Văn L đã được Toà án triệu tập làm việc nhiều lần nhưng đều vắng mặt.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nhưng không được vì lý do anh Nguyễn Văn L vắng mặt.

Sau đó, chị Vũ Thị Bích P có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nữa.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Vũ Thị Bích P vẫn giữ nguyên yêu cầu nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Vũ Thị Bích P và anh Nguyễn Văn L được ly hôn. Về con chung, tài sản chung, nợ chung không có nên đề nghị không xem xét. Về án phí: buộc chị Vũ Thị Bích P phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn L đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền: Nguyên đơn chị Vũ Thị Bích P khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn L nên xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn” và thuộc thẩm quyền của Tòa án giải quyết theo quy định khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án:

3.1 Về quan hệ hôn nhân: Chị P và anh L tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 20/8/2019 là hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Theo chị P trình bày sau khi vợ chồng đăng ký kết hôn thì vợ chồng chuyển về nhà riêng của chị tại thôn 11, xã L, huyện B để sinh sống được vài tháng thì vợ chồng thường xuyên cãi vã, chửi bới, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh L không lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình. Ngoài ra, anh L không tôn trọng bố mẹ và gia đình chị nên từ tháng 3/2020 cho đến nay chị và anh L không còn sống chung với nhau nữa, phần ai người ấy sống, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc đến nhau. Tại biên bản xác minh ngày 20/01/2021, chính quyền địa phương nơi chị Vũ Thị Bích P và anh Nguyễn Văn L sinh sống cho biết: Khoảng thời gian từ tháng 9/2019 đến tháng 3/2020 chị P và anh L có sinh sống tại thôn 11, xã L, huyện B, về mâu thuẫn giữa chị P và anh L thì chính quyền địa phương không nắm được. Tuy nhiên, từ tháng 3/2020 đến nay anh L về thôn 4, xã L, huyện B sinh sống nên giữa vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa. Tại biên bản xác minh ngày 26/01/2021, ông Nguyễn Đình Thái là bố của anh Nguyễn Văn L cho biết: Trước đây, anh L và chị P sinh sống tại thôn 11, xã L, huyện B, khoảng từ tháng 4/2020 do vợ chồng mâu thuẫn nên anh L về nhà ông Thái ở thôn 4, xã L, huyện B sinh sống nhưng do anh L làm nghề lái xe nên thỉnh thoảng mới về nhà. Điều đó chứng tỏ trong thời gian vợ chồng sống chung đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng nên vợ giữa chị P và anh L không còn sống chung với nhau nữa.

Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Văn L đến Tòa án để trình bày ý kiến về việc chị P xin ly hôn, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Nguyễn Văn L đều vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan. Chứng tỏ anh Nguyễn Văn L có thái độ bỏ mặc, không có thiện chí hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng, muốn dây dưa kéo dài gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

Nay chị Vũ Thị Bích P cương quyết xin được ly hôn với anh Nguyễn Văn L. Điều đó càng chứng tỏ trong thời gian qua, chị Vũ Thị Bích P và anh Nguyễn Văn L sống chung không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Vũ Thị Bích P và anh Nguyễn Văn L được ly hôn là có cơ sở và đúng pháp luật.

3.2 Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Trong thời gian sống chung, chị Vũ Thị Bích P và anh Nguyễn Văn L không có con chung, không có tài sản chung, không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 143, Điều 144, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Vũ Thị Bích P xin ly hôn nên buộc chị P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 143, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và 238 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 39 Bộ luật dân sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn” của nguyên đơn chị Vũ Thị Bích P với bị đơn anh Nguyễn Văn L.

Xử cho chị Vũ Thị Bích P được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

2. Về án phí: Buộc chị Vũ Thị Bích P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng chị Vũ Thị Bích P đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu tiền số AA/2016/0019711 ngày 09/6/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Lâm Đồng, chị Vũ Thị Bích P đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 22/02/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về