Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về xin ly hôn và cấp dưỡng nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ XIN LY HÔN VÀ CẤP DƯỠNG NUÔI CON

Trong ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 320/2020/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 10 năm 2020, về việc “Xin ly hôn và cấp dưỡng nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST- HNGĐ, ngày 11 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị A, sinh năm 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm D, Phường F, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

- Bị đơn: Ông Đặng Văn B, sinh năm 1975 (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm D, Phường F, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

- Con chưa thành niên:

Cháu Đặng Hoàng C, sinh ngày 16/8/2004 (vắng mặt) Địa chỉ: Khóm D, Phường F, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

Nguyên đơn bà Trịnh Thị A có đơn xin xét xử vắng mặt nên vắng mặt tại phiên tòa, bị đơn ông Đặng Văn B và con chưa thành niên Đặng Hoàng C vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 8 năm 2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án của nguyên đơn bà Trịnh Thị A thể hiện:

Bà A và ông Đặng Văn B kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh vào năm 2001. Quá trình chung sống bà A và ông B có 02 người con là Đặng Thị Ngọc G, sinh ngày 27/10/2002 và Đặng Hoàng C, sinh ngày 16/8/2004. Thời gian đầu vợ chồng bà A và ông B chung sống tương đối hạnh phúc. Nhưng khoảng 01 năm trở lại đây thì giữa vợ chồng bà A và ông B thường xuyên xảy ra bất đồng ý kiến, mâu thuẫn với nhau dẫn đến hạnh phúc gia đình bị rạn nức. Vì tình nghĩa vợ chồng và vì con nên bà A cố gắng hàn gắn với ông B để tiếp tục cùng nhau chung sống, nhưng cuối cùng hai người cũng không hàn gắn được, những việc bất đồng ý kiến, mâu thuẫn xảy ra ngày càng nhiều và gay gắt hơn, hạnh phúc gia đình hoàn toàn đổ vỡ, bà A và ông B cũng đã ly thân nhau hơn 06 tháng. Nay bà A yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà A được ly hôn với ông Đặng Văn B. Về con chung 02 người là Đặng Thị Ngọc G, sinh ngày 27/10/2002 và Đặng Hoàng C, sinh ngày 16/8/2004. Đối với Đặng Thị Ngọc G đã trưởng thành nên bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với Đặng Hoàng C hiện nay chưa thành niên nên bà A yêu cầu tiếp tục nuôi con và không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Bà A khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Đặng Văn B vắng mặt tại phiên tòa nên không có lời trình bày.

- Con chung chưa thành niên Đặng Hoàng C vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai thể hiện: Cháu C là con của cha Đặng Văn B và mẹ Trịnh Thị A. Sau khi cha mẹ con ly hôn thì cháu C có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với mẹ Trịnh Thị A.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Trịnh Thị A có đơn xin xét xử vắng mặt nhưng vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện là yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà A được ly hôn với ông Đặng Văn B. Về con chung 02 người là Đặng Thị Ngọc G, sinh ngày 27/10/2002 và Đặng Hoàng C, sinh ngày 16/8/2004. Đối với Đặng Thị Ngọc G đã trưởng thành nên bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với Đặng Hoàng C hiện nay chưa thành niên nên bà A yêu cầu tiếp tục nuôi con và không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung bà A khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Đặng Văn B mặt tại phiên tòa nên không có lời trình bày.

Các đương sự đều vắng mặt nên cũng không trực tiếp thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và cũng không có đương sự nào cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh cho yêu cầu của mình.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, đối với việc tuân theo pháp luật tố tụng:

- Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về: thẩm quyền thụ lý, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời hạn xét xử, quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng.

- Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa hôm nay đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý đến thời điểm này, nguyên đơn đã chấp hành đúng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đúng theo quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với việc giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu hồ sơ, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh luận của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28; 35; 39; 147; 227; 228 và 238 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 51, 53, 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình. Áp dụng điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số:

326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trịnh Thị A, cho bà A được ly hôn với ông Đặng Văn B.

Về con chung: 02 người là Đặng Thị Ngọc G, sinh ngày 27/10/2002 và Đặng Hoàng C, sinh ngày 16/8/2004. Đối với Đặng Thị Ngọc G đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết. Đối với Đặng Hoàng C, sinh ngày 16/8/2004 là con chưa thành niên nên giao cho bà A yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu C là được sống chung với mẹ. Ông B không phải cấp dưỡng nuôi con do bà A không còn yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà Trịnh Thị A không yêu cầu nên đề nghị không đặt ra xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Bà A khai không có nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: Buộc bà Trịnh Thị A phải nộp án phí Hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình về việc “Xin ly hôn và cấp dưỡng nuôi con”, căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

[2] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Trịnh Thị A có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Đặng Văn B mặc dù đã được triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai nhưng ông B vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử có căn cứ để tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự này theo quy định tại Điều 227 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trịnh Thị A và ông Đặng Văn B kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh vào năm 2001. Do trong cuộc sống vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn tình cảm được nên bà A yêu cầu ly hôn với ông B.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà A, do đã xảy ra nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn giữa vợ chồng bà A và ông B, tình cảm vợ chồng không còn thương yêu nhau nên bà A yêu cầu ly hôn với ông B. Hội đồng xét xử nhận thấy cuộc sống vợ chồng của bà A không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu xin ly hôn của bà A là có căn cứ để chấp nhận.

Tại phiên tòa hôm nay, ông Đặng Văn B vắng mặt cũng đã thể hiện ý chí của ông B không muốn hàn gắn để cùng về tiếp tục chung sống, xây dựng gia đình hạnh phúc, nuôi dạy các con chưa thành niên với bà A và cũng thể hiện ông B đã từ bỏ quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận có đủ căn cứ để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà A, cùng phù hợp với đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

[4] Về con chung: 02 người là Đặng Thị Ngọc G, sinh ngày 27/10/2002 và Đặng Hoàng C, sinh ngày 16/8/2004. Đối với Đặng Thị Ngọc G đã trưởng thành nên bàA không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với Đặng Hoàng C, sinh ngày 16/8/2004 hiện nay chưa thành niên nên bà A yêu cầu tiếp tục nuôi. Cháu Đặng Hoàng C có nguyện vọng được sống chung với mẹ.

Hội đồng xét xử nhận thấy:

Con chung Đặng Thị Ngọc G, sinh ngày 27/10/2002 đã là người trưởng thành. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Đối với con chung Đặng Hoàng C, sinh ngày 16/8/2004 là người chưa thành niên, hiện nay cháu C đang sống chung với bà A nên Hội đồng xét xử thấy có căn cứ để chấp nhận yêu cầu tiếp tục nuôi con của bà A và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu C là muốn được sống chung với mẹ.

[5] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Bà Trịnh Thị A không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con chung chưa thành niên.

Hội đồng xét xử xét thấy: Theo nội dung đơn khởi kiện thì bà Trịnh Thị A có nêu yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, tại phiên hòa giải cũng như đơn xin xét xử vắng mặt thì bà A đều có ý kiến thể hiện không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng nuôi con. Đây là ý chí của đương sự, không trái đạo đức xã hội, không trái với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Do bà Trịnh Thị A khai không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[7] Về án phí sơ thẩm: Bà Trịnh Thị A phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 207; Điều 227; Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ các Điều 51; 53; 56; 57; 58 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trịnh Thị A.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trịnh Thị A được ly hôn với ông Đặng Văn B.

- Về con chung: 02 người là Đặng Thị Ngọc G, sinh ngày 27/10/2002 và Đặng Hoàng C, sinh ngày 16/8/2004. Đối với Đặng Thị Ngọc G đã trưởng thành nên không đặt ra xem xét giải quyết. Đối với Đặng Hoàng C, sinh ngày 16/8/2004, giao cho bà Trịnh Thị A tiếp tục nuôi dưỡng, cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu C là được sống chung với mẹ. Ông B không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con - Về tài sản chung, nợ chung: Bà Trịnh ThịA khai không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

* Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Buộc bà Trịnh Thị A phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được cấn trừ vào số tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng mà bà A đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0000944 ngày 01 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, nên bà A không phải nộp tiếp.

Án xử sơ thẩm công khai báo đương sự vắng mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường nơi đương sự cư trú để xin Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về xin ly hôn và cấp dưỡng nuôi con

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về