Bản án 06/2020/HSST ngày 24/04/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỘC - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 06/2020/HSST NGÀY 24/04/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Tòa án nhân dân Huyện V, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 03/2020/HSST ngày 20 tháng 3 năm 2020. Đối với các bị cáo:

1. Vũ Đình Ư - Sinh ngày 01/3/1966 Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn M, Xã V, Huyện V, tỉnh Thanh Hóa:

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 7/10; Quốc tịch: Việt Nam:

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Vũ Đình T (Đã chế) và bà: Phùng Thị C, sinh năm: 1938; Vợ: Vũ Thị Ch, sinh năm 1969; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1987, con nhỏ sinh năm 1990:

Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2020 đến ngày 14/01/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân Huyện V, tỉnh Thanh Hóa.

2. Vũ Hồng Đ - Sinh ngày: 04/3/1982:

Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn M, Xã V, Huyện V, tỉnh Thanh Hóa:

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam:

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Vũ Hồng Đ, sinh năm: 1952 và bà: Vũ Thị B, sinh năm: 1955; Vợ: Vũ Thị T, sinh năm 1986; Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2016:

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Nhân Thân: Ngày 22 tháng 9 năm 2017 bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm sức khỏe người khác, đã chấp hành ngày 19/10/2017:

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2020 đến ngày 14/01/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân Huyện V, tỉnh Thanh.

3. Vũ Đình Ph - Sinh ngày: 16/12/1982:

Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn M, Xã V, Huyện V, tỉnh Thanh Hóa:

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam:

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Vũ Đình H (Đã chết) và bà Vũ Thị N (Đã chết); Vợ: Vũ Thị D, sinh năm 1981; Bị cáo có 01 con, sinh năm 2003; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2020 đến ngày 14/01/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân Huyện V, tỉnh Thanh Hóa.

4. Vũ Duy T - Sinh ngày: 02/10/1975:

Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn M, Xã V, Huyện V, tỉnh Thanh Hóa:

 Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam:

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Vũ Duy T, sinh năm 1941và bà Vũ Thị H, Sinh năm 1944; Vợ: Vũ Thị L (Đã ly hôn); Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2020 đến ngày 14/01/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân Huyện V, tỉnh Thanh Hóa.

5. Nguyễn Minh Ng - Sinh ngày: 02/9/1993:

Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn M, Xã V, Huyện V, tỉnh Thanh Hóa:

 Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam:

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Ngọc K (Đã chết) và bà Vũ Thị S, sinh năm 1954; Vợ: Hà Thị C, sinh năm 1995; Bị cáo có 01 con, sinh năm 2017.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2020 đến ngày 14/01/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân Huyện V, tỉnh Thanh Hóa.

6. Phạm Văn L - Sinh ngày: 04/3/1989:

Nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn C, Xã V, Huyện V, tỉnh Thanh Hóa:

 Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không:

Con ông: Phạm Văn L, sinh năm 1968 và bà Lê Thị X(Đã chết); Vợ: Nguyễn Thị N (đã ly hôn):

Bị can có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2018. Hiện cả hai con đang sống với mẹ:

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2020 đến ngày 14/01/2020. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân Huyện V, tỉnh Thanh Hóa.

Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Cao Đức B - Sinh năm 1973:

Địa chỉ: Thôn B, Xã V, Huyện V, tỉnh Thanh Hóa; Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo: Vũ Hồng Đ, Vũ Đình Ư, Vũ Đình Ph, Nguyễn Minh Ng, Vũ Duy T, Phạm Văn L, bị Viện kiểm sát nhân dân Huyện V, tỉnh Thanh Hóa truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Sáng ngày 11 tháng 01 năm 2020, Nguyễn Minh Ng,Vũ Hồng,Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, đều trú tại Thôn M, Xã V, Huyện V và Phạm Văn L, trú tại thôn C, Xã V đến nhà Vũ Đình Ư, trú tại Thôn M với mục đích giúp Vũ Đình Ư xây chuồng gà. Đến khoảng 12 giờ trưa cùng ngày Vũ Đình Ư làm cơm mời mọi người ăn. Sau khi ăn cơm xong thì các đối Tợng cùng rủ nhau đánh bài ăn tiền, do không có tiền lẻ nên Vũ Hồng Đ bảo Vũ Đình Ư đưa tiền để cho Đ đi mua bài, Vũ Đình Ư đưa cho Đ tờ tiền mệnh giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) để Đ vừa đi mua bài cho mọi người chơi vừa đổi tiền lẻ để lấy tiền chơi bài. Sau khi Vũ Hồng Đ mua bài về thì cả 06 người gồm: Vũ Hồng Đ, Vũ Đình Ư, Nguyễn Minh Ng, Vũ Duy T, Vũ Đình Ph và Phạm Văn L cùng tham gia đánh bài ăn tiền. Các đối Tợng thống nhất đánh bài ăn tiền dưới hình thức "Đánh liêng", mỗi ván đóng nước 20.000đ (hai mươi nghìn đồng), ván thường được "tố" lên đến 100.000 đồng, ván "chào" được tố lên đến 200.000 đồng. Vào khoảng 14 giê 30 phút cùng ngày thì bị công an bắt quả tang. Tang vật thu giữ gồm: 01 (mét) bộ bài tú loq khơ 52 (năm hai) và số tiền 6.460.000 đ (Sáu triệu bốn trăm sáu mươi ngìn đồng). Khi tham gia đánh bạc Vũ Đình Ư sử dụng số tiền để đánh bạc là: 1.000.000 đ(một triệu đồng); Vũ Hồng Đ sử dụng số tiền để đánh bạc là 1.000.000đ (một triệu đồng); Vũ Đình Ph sử dụng số tiền để đánh bạc là 1.000.000đ (một triệu đồng); Nguyễn Minh Ng sử dụng số tiền để đánh bạc là 1.060.000đ (một triệu không trăm sáu mươi nghìn); Phạm Văn L sử dụng số tiền để đánh bạc là 1.400.000 (một triệu bốn trăm nghìn); Vũ Duy T sử dụng số tiền để đánh bạc là 1.000.000đ (một triệu đồng). Trong quá trình đánh bạc còn có Cao Đức Bình, sinh năm 1973; Trú tại: TB, Xã V ngåi xem, không tham gia chơi bài.

Khi bắt phạm tội quả tang, cơ quan CSĐT đã thu giữ vật chứng của vụ án gồm: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 cây với số tiền 6.460.000đ (sáu triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng) hiện đang được lưu giữ tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện V để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 04/ CT - VKSVL ngày 20/3/2020 Viện kiểm sát nhân dân Huyện V, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố các bị cáo Vũ Đình Ư, Vũ Hồng Đ,Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Hồng Đ từ 12 tháng đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s, x khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Đình Ư từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Đình Ph từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Duy T từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Minh Ng từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ.

 - Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 36 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Phạm Văn L từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền và không khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

 - Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 cây.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 6.460.000đ (Sáu triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng).

Về án phí: Buộc các bị cáo Vũ Hồng Đ,Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật. Bị cáo Vũ Đình Ư là con liệt sĩ nên được miễn án phí HSST theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định Tố tụng của Cơ quan điều tra công an Huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Vũ Đình Ư, Vũ Hồng Đ, Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ và lời khai của người làm chứng thể hiện trong hồ sơ vụ án. Hành vi đánh bài ăn tiền với hình thức đánh "Liêng" vào ngày 11/01/2020 của các bị cáo đều nhằm mục đích T lợi, được, thua sát phạt lẫn nhau bằng hình thức thông qua các ván bài. Các bị cáo đều tham gia tích cực, song các bị cáo không có bàn bạc, tổ chức gì, nên đây không phải là phạm tội có tổ chức mà chỉ là đồng phạm giản đơn.

[3] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận các bị cáo Vũ Đình Ư, Vũ Hồng Đ, Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Hành vi đánh bạc của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy cần phải được xử lý nghiêm để giáo dục riêng từng bị cáo và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Xét vai trò của các bị cáo thấy rằng: Bị cáo Vũ Đình Ư là người dùng tiền của mình để mua bài, sử dụng nhà mình làm địa điểm đánh bài, tham gia đánh bài ăn tiền; Bị cáo Vũ Hồng Đ là người đi mua bài, tham gia đánh bài ăn tiền, nên hai bị cáo Ư và Đ có vai trò thứ nhất trong vụ án, các bị cáo Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L đều tham gia đánh bài ăn tiền một cách tích cực nên các bị cáo có vai trò Tơng đương nhau trong vụ án và có vai trò thấp hơn bị cáo Ư và Đ.

[5] Xét tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Xét tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo Vũ Đình Ư, Vũ Hồng Đ,Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L đều lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo Vũ Đình Ư có bố là liệt sĩ nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn Minh Ng có bố được tặng thưởng huân, huy chương nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Ngày 22 tháng 9 năm 2017, bị cáo Vũ Hồng Đ bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm sức khỏe người khác, đã chấp hành ngày 19/10/2017, nên thuộc trường hợp có nhân thân xấu, cần phải xem xét hình phạt nặng hơn các bị cáo khác khi quyết định hình phạt.

[7] Từ những nhận xét trên, Hội đồng xét xử thấy:

- Bị cáo Vũ Hồng Đ có có nhân thân xấu nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ, lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải,có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo Vũ Hồng Đ được hưởng hình phạt tù, cho hưởng án treo cũng đủ để cải tại bị cáo thành người công dân tốt.

- Bị cáo Vũ Đình Ư có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải vì vậy không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội mà xử phạt bị cáo bằng hình phạt hình phạt tù, cho hưởng án treo cũng đủ để cải tại bị cáo thành người công dân tốt.

- Các bị cáo Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, vì vậy xử phạt các bị cáo bằng hình phạt cải tạo không giam giữ, dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ để răn đe các bị cáo thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[8] Về hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập: Các bị cáo đều làn ruộng, thu nhập thấp, không có tài sản hoặc tài sản không đáng kể, nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền và miễn khấu trừ thu nhậpcho các bị cáo là phù hợp. [9] Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra công an Huyện V đã thu được số tiền 6.460.000đ (sáu triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng). Đây là số tiền các bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước là phù hợp. Đối với Bộ bài Tú lơ khơ, các bị cáo dùng để đánh bạc không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Buộc các bị cáo Vũ Hồng Đ,Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật. Bị cáo Vũ Đình Ư là con của liệt sĩ nên được miễn án phí HSST.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo: Vũ Hồng Đ, Vũ Đình Ư,Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Hồng Đ 10 (Mười) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 (Hai mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s, x khoản 1 Điều 51; Điều 58: Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Đình Ư 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Vũ Hồng Đ,Vũ Đình Ư cho Uỷ ban nhân dân Xã V, Huyện V, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm Ng vụ theo quy định của pháp Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho các bị cáo Vũ Hồng Đ và Vũ Đình Ư.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Đình Ph 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 03 (Ba) ngày tạm giữ, thời gian cải tạo không giam giữ còn lại là 08 (Tám) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều17; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Duy T 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 03 (Ba) ngày tạm giữ, thời gian cải tạo không giam giữ còn lại là 08 (Tám) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày.

- Áp dụng khoản 1 điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Minh Ng 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 03(Ba) ngày tạm giữ, thời gian cải tạo không giam giữ còn lại là 08 (Tám) tháng 21(Hai mươi mốt) ngày.

- Áp dụng khoản 1 điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 36 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Phạm Văn L 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 03 (Ba) ngày tạm giữ, thời gian cải tạo không giam giữ còn lại là 08 (Tám) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày.

Thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của các bị cáo Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L tính từ ngày Ủy ban nhân dân Xã V, Huyện V, tỉnh Thanh Hóa nhận được Quyết định Thi hành án và bản sao bản án. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục các bị cáo.

Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền và miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Vũ Hồng Đ, Vũ Đình Ư,Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 cây.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 6.460.000đ (Sáu triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tang vật trên hiện đang được lƯ giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự Huyện V theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31/3/2020 và số tiền 6.460.000đ (Sáu triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng). Hiện đã được nộp vào tài khoản tạm thu, tạm giữ số 3949.0.01054809 của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện V ngày 31/3/2020.

Về án phí: Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điểm đ Điều 12; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Vũ Hồng Đ,Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L phải chịu mỗi bị cáo 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vũ Đình Ư.

 Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo Vũ Đình Ư, Vũ Hồng Đ,Vũ Đình Ph, Vũ Duy T, Nguyễn Minh Ng và Phạm Văn L. Các bị cáo có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung luật thi hành án dân sự năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HSST ngày 24/04/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:06/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lộc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về