TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 06/2020/HS-PT NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 36/2019/TLPT-HS ngày 09 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Hoàng Văn D do có kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn D đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HS-ST ngày 05/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai.
- Bị cáo có kháng cáo:
Hoàng Văn D (tên gọi khác: Không), sinh ngày 20/3/1990 tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Tổ 27, phường C, thành phố C1, tỉnh Lào Cai. Nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn N và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Lù Thị N1 và có 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Tốt. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.
Ngoài ra còn có 03 bị cáo Triệu Văn T, Đặng Văn P, Hoàng Ổng K không có kháng cáo và không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 5/2019, Triệu Văn T gặp Hoàng Văn D ở chợ T1, thành phố C, T nói có thịt trâu giá rẻ bán cho D, D đồng ý, hai bên thỏa thuận giá thịt thăn và thịt đùi 120.000 đồng - 130.000 đòng/1kg, thịt xấu giá 100.000 đồng/1kg, còn thịt bụng và dạ xách giá 60.000 đồng/1kg. Sau đó Triệu Văn T, Đặng Văn P, Hoàng Ổng K sang huyện Than Uyên và huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu thực hiện 02 vụ trộm cắp trâu mổ lấy thịt mang về thành phố Lào Cai bán cho Hoàng Văn D. Trưa ngày 26/6/2019, D đến P trọ của T ở phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai ăn cơm uống rượu với T, P và K. D nói với mọi người “Em nghe nói trên Bắc Hà bị mất trộm trâu người ta đang điều tra đấy, nếu các anh có ăn trộm trên đấy thì thôi đừng làm nữa” T nói “Tao trộm nhưng có trộm trên đấy đâu” D lại nói “Thế thì dừng một thời gian đã rồi hãy làm” T nói tiếp “Có bắt thì bắt bọn tao, thịt qua tay mày thì sợ đếch gì”, nghe vậy D nói với T “Thế thì làm thêm mấy lần nữa, em bán lấy tiền trả tiền P”. Các bị cáo Triệu Văn T, Đặng Văn P, Hoàng Ổng K đã thực hiện 02 vụ trộm cắp trâu mổ lấy thịt đem bán cho Hoàng Văn D. Cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Sáng ngày 28/6/2019, Triệu Văn T rủ Đặng Văn P xuống huyện Văn Bàn trộm cắp trâu mổ lấy thịt bán, P đồng ý. Sau đó, P gọi điện và nói cho Hoàng Ổng K biết việc P và T về huyện B để trộm cắp trâu mổ lấy thịt bán, K xin đi cùng và hẹn gặp nhau ở xã D, huyện B. Cả ba cùng đi vào khu vực nhà máy thủy điện K1, xã D thấy 02 con trâu đang nằm ở đống cát cạnh đường, ba người cùng nhau dồn bắt và dắt 02 con trâu đến bãi đất bằng phẳng cách đường thủy điện khoảng 10m. T dùng búa tạ đập vào đầu làm con trâu đực bị ngất đổ gục xuống rồi dùng dao trọc tiết, khi con trâu đã chết T, P và K cùng nhau lọc lấy 04 đùi, thịt thăn, thịt bụng và dạ xách. T tiếp tục mổ con trâu cái cách thức như mổ con trâu đực. Khi mổ xong cả hai con trâu, ba người cho thịt vào 03 bao tải, chằng lên mỗi xe mô tô 01 bao, sau đó T gọi điện cho cho Hoàng Văn D thông báo là có thịt trâu, rồi cả ba cùng chở thịt lên khu vực chợ đêm phường T1, thành phố C gặp D ở đó. K, P cởi các bao tải đựng thịt chuyển lại cho T để T giao dịch với D, còn P và K đi về P trọ trước, sau đó T cân bán cho D được 14.000.000 đồng, T chia cho P 1.000.000đ, K 1.500.000đ.
Vụ thứ hai: Khoảng 15 giờ ô phút ngày 03/7/2019 T, P, K mỗi người điều khiển 01 xe mô tô và mang theo những công cụ như lần trước đi xuống Văn Bàn, đi theo Quốc lộ 279 vào xã L, huyện B để tìm và trộm cắp trâu. Khi đi đến ngã ba đường rẽ vào xã X, T bảo P và K đi vào xã L mua thức ăn, T đi vào xã X để tìm trâu, T đi vào đường bê tông liên thôn thuộc thôn Đ, xã X thì nhìn thấy 03 con trâu, quan sát thấy không có người chăn thả, T gọi điện cho P và chỉ đường để P, K đi vào. Đến khoảng 19 giờ 30 phút, cả ba bắt được 01 con trâu cái lông da màu đen, khoảng 9 tuổi, sừng dài 50cm và 01 con trâu cái lông da màu đen khoảng 5 tuổi, sừng dài 27cm của gia đình anh Bàn Phúc T2. T, P và K cùng nhau mổ 02 con trâu trên (cách thức mổ như lần trước) sau đó lấy thịt cho vào 03 bao tải, chằng lên các xe mô tô và chở lên khu vực chợ đêm, phường T1, thành phố C gặp D ở đó. K, P cởi các bao tải đựng thịt chuyển lại cho T để T giao dich với D, còn P và K đi về P trọ trước, sau đó T cân bán cho D được 16.620.000 đồng, D trả 10.000.000 đồng, nợ lại 6.620.000đ, T chia cho K và P mỗi người 1.500.000 đồng.
Kết luận định giá tài sản số 14/KL-ĐGTS ngày 12/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Văn Bàn kết luận: 01 con trâu cái 05 tuổi, lông da màu đen, sừng dài khoảng 30cm, thể trạng trung bình, trâu khỏe mạnh bình thường trị giá 26.000.000 đồng/01 con trâu; 01 con trâu đực khoảng 05 tuổi, lông da màu đen, sừng dài khoảng 40cm, thể trạng trung bình, khỏe mạnh bình thường trị giá 33.000.000 đồng/01 con trâu.
Kết luận định giá tài sản số 15/KL-ĐGTS ngày 16/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Văn Bàn kết luận: 01 con trâu cái khoảng 09 tuổi, lông da màu đen, sừng dài 50cm, thể trạng trung bình, trâu khỏe mạnh bình thường trị giá 27.000.000 đồng/01 con trâu; 01 con trâu cái khoảng 04 tuổi, lông da màu đen, sừng dài 27cm, thể trạng trung bình, trâu khỏe mạnh bình thường trị giá 25.000.000 đồng/01 con trâu.
Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HS-ST ngày 05/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai đã xét xử như sau:
Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn D 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên phạt các bị cáo Triệu Văn T 04 (bốn) năm tù; Hoàng Ổng K 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù; Đặng Văn P 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù; quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, quyền kháng cáo.
Ngày 11/11/2019 bị cáo Hoàng Văn D kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Hoàng Văn D bổ sung thêm nội dung kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án hình sự sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự xét xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn D. Giữ nguyên nội dung án sơ thẩm về hình phạt tù đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm đều được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có ý kiến gì về vấn đề này. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo và các đồng phạm khác tại phiên tòa sơ thẩm cũng như các T liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ để kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 28/6/2019 đến ngày 03/7/2019, bị cáo đã cũng các đồng phạm khác trong vụ án thực hiện liên tiếp 02 vụ trộm cắp tài sản. Bị cáo tham gia trong vụ án với vai trò đồng phạm giúp sức, tổng giá trị tài sản các bị cáo đã chiếm đoạt là 111.000.000 đồng. Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo và các đồng phạm trong vụ án về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn D, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng là “Phạm tội 02 lần trở lên”, được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, nên không đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, bị cáo đã bồi thường cho các bị hại tổng số tiền là 10.000.000 đồng, các bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuyên phạt bị cáo mức án 03 (ba) năm tù là tương xứng với tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm được chứng cứ mới đó là: Ngày 08/01/2020, khi đi trên đường Võ Nguyên Giáp, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Bị cáo có nhặt được 01 chiếc túi trong đó có quần áo, một điện thoại và một chiếc ví, bị cáo đã giao nộp toàn bộ đồ vật nêu trên cho Công an phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai. Sau khi giao nộp, Cơ quan Công an đã kiểm tra và phát hiện trong ví có số tiền là 18.000.000 đồng, sau đó đã tìm được chủ sở hữu tài sản là anh Mai Văn L1 và đã trả lại cho anh L1. Ngoài ra bị cáo còn xuất trình thêm chứng cứ đó là bố đẻ của bị cáo là người có công với cách mạng. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy đây là những tình tiết mới, cần áp dụng cho bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Việc cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là do có thêm tình tiết giảm nhẹ mới, cấp sơ thẩm không có lỗi trong việc cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo Hoàng Văn D. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 52/2019/HS-ST ngày 05/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai về phần hình phạt tù đối với bị cáo Hoàng Văn D như sau:
Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, 58 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn D 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
2. Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 06/2020/HS-PT ngày 13/01/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 06/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/01/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về