Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 17/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 06/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/01/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 781/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 289/2019/QĐXX-ST ngày 26 tháng 12 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Y; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 3, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn 1, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đình T; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 3, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn 1, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 19/9/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phạm Thị Y (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Y và anh Nguyễn Đình T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 06/3/2013. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt và nuôi dạy con vợ chồng không thống nhất. Mặt khác, anh T mải chơi và có quan hệ với người phụ nữ khác, chị Y đã khuyên bảo nhưng anh T không nghe dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không thành. Nay, chị Y nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên chị Y yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Đình T.

Về con chung: Chị Phạm Thị Y khai: Chị và anh Nguyễn Đình T có 02 con là Nguyễn Đình T1 sinh ngày 17 tháng 4 năm 2013 và Nguyễn Tùng L sinh ngày 24 tháng 10 năm 2017. Hiện chị Y đang nuôi cả hai con. Trường hợp ly hôn, chị Y có nguyện vọng xin được tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Y khai chị đề nghị anh T cấp dưỡng mỗi tháng mỗi con chung là 2.500.000 đồng đến khi các con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Về tài sản chung: Chị Phạm Thị Y khai: Chị và anh Nguyễn Đình T không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Đình T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật song đến ngày mở phiên tòa, anh T vẫn không có mặt để trình bày ý kiến về việc chị Y xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Y và anh T. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị Y và anh Nguyễn Đình T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Y và anh T được ly hôn. Về con chung: Chị Phạm Thị Y và anh Nguyễn Đình T có 02 con chung là Nguyễn Đình T1, sinh ngày 17 tháng 4 năm 2013 và Nguyễn Tùng L, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2017. Hin chị Y đang nuôi cả hai con. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, nguyện vọng đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị Phạm Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng hai con con chung là Nguyễn Đình T1, sinh ngày 17 tháng 4 năm 2013 và Nguyễn Tùng L, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2017 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên anh Nguyễn Đình T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với chị Phạm Thị Y mỗi tháng 3.000.000 (Ba triệu đồng) kể từ tháng 02 năm 2020 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung: Chị Phạm Thị Y khai chị và anh Nguyễn Đình T không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Về nghĩa vụ nộp án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Phạm Thị Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, anh Nguyễn Đình T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Phạm Thị Y đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Nguyễn Đình T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Phạm Thị Y và anh Nguyễn Đình T.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị Y và anh Nguyễn Đình T được xác lập vào năm 2013 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Do mâu thuẫn nên chị Y và anh T hiện đã sống ly thân nhau. Chị Y xin ly hôn anh T, Tòa án đã triệu tập anh T đến phiên tòa nhiều lần để trình bày ý kiến về việc chị Y xin ly hôn nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Y và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Y và anh T được ly hôn.

[3] Về con chung: Chị Phạm Thị Y và anh Nguyễn Đình T có 02 con chung là Nguyễn Đình T1, sinh ngày 17 tháng 4 năm 2013 và Nguyễn Tùng L, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2017. Hiện chị Y đang nuôi cả hai con. Trường hợp ly hôn chị Y có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con chung. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy từ khi sống ly thân đến nay chị Y là nuôi dưỡng cả hai con và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, chị Y có công việc và thu nhập ổn định. Vì vậy giao cho chị Phạm Thị Y được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Đình T1, sinh ngày 17 tháng 4 năm 2013 và Nguyễn Tùng L, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2017 cho đến khi hai con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Nguyễn Đình T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung với chị Phạm Thị Y mỗi tháng 3.000.000 (Ba triệu đồng) kể từ tháng 02 năm 2020 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung: Chị Phạm Thị Y khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Phạm Thị Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, anh Nguyễn Đình T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị Y và anh Nguyễn Đình T được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Y và anh Nguyễn Đình T.

2. Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Nguyễn Đình T1, sinh ngày 17 tháng 4 năm 2013 và Nguyễn Tùng L, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2017 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Nguyễn Đình T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung với chị Phạm Thị Y mỗi tháng 3.000.000 (Ba triệu đồng) kể từ tháng 02 năm 2020 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị Y phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Y đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003058 ngày 02 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Phạm Thị Y đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Anh Nguyễn Đình T phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Chị Phạm Thị Y và anh Nguyễn Đình T có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 17/01/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:06/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về