Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 12/05/2020 về ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN-TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 06/2020/HNGĐ-ST NGÀY 12/05/2020 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 12 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 307/2019/TLST-HNGĐ, ngày 23 tháng 12 năm 2019 về việc: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2020/QĐXX-ST, ngày 25 tháng 02 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 08/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2020 và thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 02/2020/TB-TĐTGMPT ngày 23 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị D, sinh ngày 02/02/1990 (có mặt)

2- Bị đơn: Anh Phạm Văn Q, sinh năm 1991 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp B, xã N.A, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 09/12/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Bùi Thị D trình bày và yêu cầu như sau:

Về hôn nhân: Chị D và anh Phạm Văn Q kết hôn với nhau vào năm 2012, có tổ chức lễ cưới theo phong tục ở địa phương và có đăng ký kết hôn ngày 29/3/2012 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện M, tỉnh Kiên Giang.Vợ chồng chung sống đến năm 2017 thì phát sinh ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày, dẫn đến cự cải nhau thường xuyên làm cho hạnh phúc không còn nữa, từ đó vợ chồng đã ly thân với nhau cho đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm của vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt nên chị yêu cầu xin được ly hôn với anh Phạm Văn Q.

Về con chung: Có 01 đứa con tên Phạm Gia H, sinh ngày 24/5/2013, từ khi ly thân cho đến nay chị chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H, cuộc sống của cháu H vẫn ổn định và bản thân chị cũng có đủ điều kiện nuôi con. Nay chị yêu cầu xin được nuôi con và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Chị thừa nhận không có nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Đi với bị đơn anh Phạm Văn Q Tòa án đã tống đạt hợp lệ gồm: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Q vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị D.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Bùi Thị D vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu như đã nêu trên.

Tại phiên tòa hôm nay, anh Phạm Văn Q vắng mặt. Quan điểm của đại viện Viện kiểm sát:

Về phần thủ tục: Từ khi thụ lý hồ sơ vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử thì Thẩm phán đã thực hiện trình tự thủ tục đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử và thư ký đã thực hiện trình tự thủ tục đúng theo quy định của pháp luật.

Về phần nội dung:

Về hôn nhân: Ghi nhận yêu cầu của chị Bùi Thị D, xử cho chị Bùi Thị D và anh Phạm Văn Q được ly hôn.

Về con chung: Ghi nhận yêu cầu của chị Bùi Thị D giao cháu Phạm Gia H, sinh ngày 24/5/2013 cho chị D chăm sóc, nuôi dưỡng, anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và phần nợ chung: Chị Bùi Thị D thừa nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền xét xử: Đây là quan hệ tranh chấp về ly hôn, nuôi con và bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 28 điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử là đúng thẩm quyền.

[2] Về thủ tục tố tụng: Đối với anh Phạm Văn Q được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt đối với anh Phạm Văn Q.

[3] Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Chị Bùi Thị D và anh Phạm Văn Q kết hôn với nhau vào năm 2012 và có đăng ký kết hôn ngày 29/3/2012 tại Ủy ban nhân dân xã, huyện M, tỉnh Kiên Giang nên hôn nhân của chị D và anh Q là hợp pháp.

Về mâu thuẫn, vợ chồng chung sống đến năm 2017 thì phát sinh ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, dẫn đến cự cải nhau thường xuyên, làm cho hạnh phúc không còn nữa, từ đó vợ chồng đã ly thân với nhau cho đến nay. Hơn nữa từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay bản thân anh chị và gia đình cha mẹ hai bên cũng không tự hòa giải được.

Từ đó, xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Bùi Thị D xử cho chị Bùi Thị D và anh Phạm Văn Q ly hôn là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Chị Bùi Thị D và anh Phạm Văn Q có 01 người con tên Phạm Gia H, sinh ngày 24/5/2013, chị D yêu cầu xin được nuôi con và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, yêu cầu của chị D là có cơ sở. Bởi vì, từ khi ly thân cho đến nay chị D chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H, cuộc sống cháu H vẫn ổn định và bản thân chị có đủ điều kiện để nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận yêu cầu của chị D, giao cháu Phạm Gia H cho chị D chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về tài sản và nợ chung: Chị Bùi Thị D thừa nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[4] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Bùi Thị D phải chịu 300.000đ. Nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ. Vậy chị D đã nộp đủ tiền án phí.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nêu trên là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án và khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, đểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị D và anh Phạm Văn Q được ly hôn.

2. Về con chung: Ghi nhận yêu cầu của chị Bùi Thị D là giao cháu Phạm Gia H, sinh ngày 24/5/2013, cho chị D chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Q có quyền thăm nom con chung, không ai được ngăn cản. Khi cần thiết chị D và anh Q có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản và nợ chung: Chị Bùi Thị D thừa nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Bùi Thị D phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng). Nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), theo lai thu số 0008325, ngày 23/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Vậy chị D đã nộp đủ tiền án phí.

5. Báo quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm báo cho chị Duy có mặt biết có quyền kháng cáo Bản án trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (12/5/2020). Đối với anh Q vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 12/05/2020 về ly hôn và nuôi con

Số hiệu:06/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về