TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 06/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 28/02/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2019/TLST-HS ngày 29/01/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2019/QĐXXST-HS ngày 15/02/2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Mùa A S (Tên gọi khác: không); Sinh năm 1959 tại xã T, huyện T, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản N, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ văn hoá: 2/10; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mùa A S (đã chết) và bà Thào Thị S (đã chết); Có vợ là Hờ Thị D (sinh năm 1966) và có 07 con; Tiền sự: Không; Tiền án: không; Nhân thân: Ngày 14/4/2004 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé xử phạt 24 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; ngày 17/01/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé xử phạt 36 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09/11/2018 đến ngày 12/11/2018, tạm giam từ ngày 12/11/2018 đến nay, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Pờ Go L- Luật sư cộng tác viên trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Hờ Thị D, sinh năm 1966, nơi cư trú: Bản N, xã H, huyện M, tỉnh Điện Biên. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12 giờ ngày 09/11/2018 Mùa A S một mình điều khiển chiếc xe máy biển kiểm soát 27S1-028.32 đi đến khu vực bản Đ, xã Ch, huyện M tìm mua thuốc phiện về sử dụng. Tại bản Đ, xã Ch, Mùa A S gặp 1 người đàn ông dân tộc Hà Nhì và nhờ ông ta mua cho 06 gói thuốc phiện với giá 600.000 đồng. Mua được thuốc phiện ông ta đi đâu S không biết còn S mang theo số thuốc phiện vừa mua được quay về nhà, về đến khu vực bản N, xã Ch, huyện M thì S bị Tổ công tác Đồn biên phòng Leng Su Sìn phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số thuốc phiện mua được, đồng thời thu giữ: 01 xe máy cũ đã qua sử dụng nhãn hiệu HONDA WAVE màu xanh- đen- bạc, biển kiểm soát 27S1-028.32, số máy 3031436, số khung 231410 và 01 chìa khóa; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc, 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ hội viên, 01 thẻ bảo hiểm đều mang tên Mùa A S; 01 mũ bảo hiểm nhãn hiệu Andes màu xanh bạc.
Kết luận giám định số 97/GĐ-PC09 ngày 27/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: 06 mẫu chất dẻo màu nâu đen gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Mùa A S là thuốc phiện; Khối lượng vật chứng thu giữ của Mùa A S là 1,6 gam.
Cáo trạng số 08/CT-VKS-MN ngày 29/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé đã truy tố Mùa A S để xét xử về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, phần luận tội đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Mùa A S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự; Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy: 0,9 gam thuốc phiện còn lại sau khi đã trích giám định; tịch thu nộp ngấn sách Nhà nước ½ giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu xanh đen- bạc, biển kiểm soát 27S1-028.32, số máy 3031436, số khung 231410; trả lại cho chị Hờ Thị D ½ giá trị chiếc xe máy trên; trả lại cho bị cáo 01 chìa khóa xe, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc, 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ hội viên, 01 thẻ bảo hiểm đều mang tên Mùa A S; 01 mũ bảo hiểm nhãn hiệu Andes màu xanh bạc; căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo nhất trí với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, nhất trí với luận tội về tội danh; điều khoản áp dụng; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; hình phạt bổ sung; xử lý vật chứng vụ án và án phí; về phần hình phạt chính đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 đến 16 tháng tù.
Tại phiên tòa bị cáo Mùa A S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã tóm tắt ở trên và đúng như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo nhất trí với nội dung bào chữa của Luật sư, không tranh luận gì với luận tội của Viện kiểm sát. Lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người có quyền lợi ngĩa vụ liên quan chị Hờ Thị D tại phiên tòa trình bày: Chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu xanh- đen- bạc, biển kiểm soát 27S1-028.32, số máy 3031436, số khung 231410 mà bị cáo dùng đi mua thuốc phiện là tài sản chung của hai vợ chồng bị cáo, chị D khai không biết gì về việc bị cáo đã dùng chiếc xe này để đi mua thuốc phiện, chị D đề nghị cơ quan có thẩm quyền trả lại cho chị ½ giá trị chiếc xe máy trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường Nhé, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai và các bản cung có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với kết luận giám định, kết luận điều tra, cáo trạng truy tố và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vậy đã có đủ căn cứ để xác định: Hành vi tàng trữ trái phép 1,6 gam thuốc phiện với mục đích để sử dụng của bị cáo Mùa A S đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 08/CT-VKS-MN ngày 29/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé truy tố bị cáo để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, đi ngược lại đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng ngừa các tội phạm về ma túy, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý.
Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, đã hai lần bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo không những không lấy 2 lần phạm tội làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội về ma túy và phải bị xét xử như ngày hôm nay. Tuy nhiên quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù. Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 đến 16 tháng tù. Xét đề nghị này của Đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa là có căn cứ, hợp pháp nên cần xử phạt bị cáo như đề nghị của Viện Kiểm sát và người bào chữa.
Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình của bị cáo khó khăn, hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 249 BLHS đối với bị cáo.
Đối với đối tượng người đàn ông dân tộc Hà Nhì, là người đã mua thuốc phiện giúp bị cáo, do bị cáo không biết ông ta tên là gì và cư trú ở đâu, cơ quan điều tra không có căn cứ xác định nên không có cơ sở để xử lý.
[3] Về xử lý vật chứng:
Đối với số tổng số thuốc phiện còn lại là 0,9 gam (gói 1 là 0,2 gam; gói 2 là 0,2 gam, gói 3 là 0,2 gam; gói 4 là 0,1 gam gói 5 là 0,1 gam; gói 6 là 0,1 gam) sau khi đã trích giám định cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với các vật chứng đã thu giữ: 01 chìa khóa xe, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc, 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ hội viên, 01 thẻ bảo hiểm đều mang tên Mùa A Su; 01 mũ bảo hiểm nhãn hiệu Andes màu xanh bạc. Xét thấy những vật chứng này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo Mùa A S.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu xanh-đen-bạc, biển kiểm soát 27S1-028.32, số máy 3031436, số khung 231410; xét thấy chiếc xe máy này là phương tiện bị cáo dùng để đi mua thuốc phiện nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, chiếc xe máy này là tài sản chung của bị cáo với vợ bị cáo là chị Hờ Thị D và chị D không biết gì về việc bị cáo S dùng chiếc xe máy này để đi mua thuốc phiện, do vậy cần tịch thu ½ giá trị chiếc xe máy để nộp vào ngân sách Nhà nước và trả lại cho chị Hờ Thị D ½ giá trị chiếc xe máy trên.
[4] Về án phí: Xét thấy bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn đề nghị miễn án phí nên chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Mùa A S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
Xử phạt bị cáo Mùa A S 16 (Mười sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ là ngày 09/11/2018.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu, tiêu huỷ 0,9 gam thuốc phiện (gói 1 là 0,2 gam; gói 2 là 0,2 gam, gói 3 là 0,2 gam; gói 4 là 0,1 gam gói 5 là 0,1 gam; gói 6 là 0,1 gam) là vật chứng vụ án Mùa A S.
Tịch thu ½ giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu xanh- đen- bạc, biển kiểm soát 27S1-028.32, số máy 3031436, số khung 231410 để nộp ngân sách nhà nước;
Trả lại cho chị Hờ Thị D ½ giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu xanh đen- bạc, biển kiểm soát 27S1-028.32, số máy 3031436, số khung 23141.
Trả lại cho bị cáo Mùa A S 01 chìa khóa xe, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc, 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ hội viên, 01 thẻ bảo hiểm đều mang tên Mùa A S; 01 mũ bảo hiểm nhãn hiệu Andes màu xanh bạc.
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/01/2019 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Mùa A S.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 06/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 06/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/02/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về