Bản án 06/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 06/2019/HS-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 27 tháng 6 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2019/TLST-HS, ngày 15 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Lâm Hùng E, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Ấp B, thị trấn D, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Văn X (đã chết) và bà Đoàn Thị B (còn sống); Vợ: Trần Thị T, con: Có 03 người (lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2013); anh chị em ruột: có 06 người, lớn nhất sinh năm 1957, nhỏ nhất là bị cáo; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18/02/2019 cho đến nay (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lương Thị Ngọc H, thuộc Trung tâm trợ giúp Pháp lý Nhà nước tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

* Bị hại: Anh Lê Văn R, sinh năm 1976; Cư trú tại: thị trấn P, huyện LP, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Lê Văn M, sinh năm 1962; Cư trú tại: Ấp B, xã H, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

+ Anh Trần Văn L, sinh năm 1976; Cư trú tại: Ấp C, thị trấn D, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

* Người làm chứng:

+ Ông Lê Thanh P, sinh năm 1962; Cư trú tại: Ấp 2, thị trấn N, huyện LP, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

+ Anh Phan Thanh T, sinh năm 1989; Cư trú tại: Ấp B, thị trấn D, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

+ Ông Lâm Văn Đ, sinh năm 1957; Cư trú tại: Ấp B, thị trấn D, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

+ Chị Lâm Thị H, sinh năm 1972; Cư trú tại: Ấp B, thị trấn D, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

+ Chị Trần Thị T, sinh năm 1979; Cư trú tại: Ấp B, thị trấn D, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Anh Lê Văn R là chủ thầu xây dựng Trung tâm y tế huyện CLD, tọa lạc tại ấp B, thị trấn D, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng. Trong quá trình thi công, anh R phát hiện gạch ốp tường bị mất khoảng 100 thùng, mỗi thùng có 10 viên gạch. Khi phát hiện gạch ốp tường bị mất, anh R biết được Lâm Hùng E (nhà của Lâm Hùng E đối diện với công trình xây dựng Trung tâm y tế huyện) bán 20 thùng gạch ốp tường cho anh Trần Văn L (là chủ lò giết mổ gia súc ở gần nhà Lâm Hùng E). Xác định số gạch mà Lâm Hùng E bán cho anh Trần Văn L là gạch của mình, anh R trình báo sự việc đến chính quyền địa phương.

Sau khi tiếp nhận tin tố giác, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CLD tiến hành xác minh và Lâm Hùng E thừa nhận: Vào ngày 20/10/2018, Hùng E kêu ông Lê Văn M là người làm thuê cho công trình xây dựng Trung tâm y tế huyện CLD trộm 20 thùng gạch ốp tường cho Hùng E và Hùng E đã bán 20 thùng gạch ốp tường cho anh Trần Văn L với số tiền là 1.500.000 đồng và số tiền này Hùng E đã tiêu xài cá nhân hết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu hồi được.

Ngoài vụ trộm trên thì Lâm Hùng E khai nhận: Để có tiền tiêu xài cá nhân nên Hùng E nảy sinh ý định trộm gạch ốp tường của anh R để bán lấy tiền tiêu xài và từ ngày 20/10/2018 đến ngày 06/11/2018, Lâm Hùng E 05 lần trộm gạch ốp tường của anh R là 519 viên, Hùng E chỉ nơi cất giấu tài sản trộm được và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CLD đã thu hồi trả lại cho anh R, cụ thể Hùng E thực hiện các lần trộm như sau:

Lần thứ 1: Vào khoảng 23 giờ ngày 27/10/2018, Hùng E chạy xe mô tô loại Dream, biển số 83D1 – 073.92 vào cổng công trình xây dựng Trung tâm y tế huyện bằng đường cổng phụ (trước khối 3), Hùng E vào đậu xe trên lộ đá chạy xuôi theo công trình và đi vào nơi để gạch là trên khối 3 của Trung tâm y tế lấy trộm 05 thùng gạch mang ra để trên baga giữa của xe rồi chạy xe chở gạch về giấu trong đám cây sậy thuộc phần đất của bà Nguyễn Ngọc T (cách hong bên phải nhà Hùng E 23 mét). Tiếp theo Hùng E chạy xe vào công trình lấy thêm 05 thùng gạch, cách lấy và giấu như lần trước. Cả hai lần Hùng E lấy 10 thùng gạch nguyên.

Lần thứ 2: Vào khoảng 23 giờ ngày 29/10/2018, Hùng E cũng chạy xe mô tô nêu trên vào công trình lấy trộm gạch như lần thứ 1. Hùng E trộm cắp 05 thùng gạch để lên xe và chở về cất giấu trong đám cây sậy (ngay chỗ cất giấu gạch trộm được đêm 27/10/2018). Tiếp theo Hùng E tiếp tục chạy xe vào công trình lấy trộm thêm 05 thùng gạch nguyên và chạy xe về cất giấu dưới mương rau muống phía sau nhà của Lâm Hùng E và thuộc phần đất của bà Út M.

Lần thứ 3: Vào khoảng 23 giờ ngày 01/11/2018, Hùng E chạy xe mô tô nêu trên vào khối 3 của công trình lấy trộm gạch 02 chuyến, chuyến đầu Hùng E lấy 05 thùng gạch nguyên, chuyến thứ hai lấy số gạch lẽ ở ngoài khoảng 07 thùng và chạy xe về cất giấu dưới cái mương rau muống sau nhà.

Lần thứ 4: Vào khoảng 23 giờ ngày 04/11/2018, Hùng E dùng xe mô tô nêu trên chạy vào khối 3 của công trình xây dựng Trung tâm y tế huyện CLD lấy trộm gạch chỗ đã lấy như những lần trước, Hùng E lấy trộm 02 chuyến được 10 thùng gạch nguyên và cất giấu dưới mương rau muống sau nhà.

Lần thứ 5: Vào khoảng 23 giờ ngày 06/11/2018, Hùng E chạy xe mô tô nêu trên vào khối 3 của công trình lấy trộm gạch chỗ cũ (cách thực hiện hành vi giống như những lần trước), chuyến thứ nhất lấy 05 thùng gạch nguyên, chuyến thứ hai lấy 04 thùng gạch nguyên và 01 thùng gạch lẽ rồi chở về cất giấu dưới mương nước nuôi cá tra của gia đình Hùng E.

Ti Bản kết luận số 16/2018/KL.HĐĐG ngày 12/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện CLD, kết luận: 200 viên gạch ốp tường, nhãn hiệu thanh thanh, kích thước (25 x 40)cm có giá trị mỗi viên là 10.500 đồng. Tổng cộng là 2.100.000 đồng.

Ti Bản kết luận số: 17/2018/KL.HĐĐG ngày 12 tháng 12 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện CLD, kết luận: 519 viên gạch ốp tường, nhãn hiệu Thanh Thanh, kích thước (25 x 40)cm màu trắng, giá 8.8000 đồng/viên + chi phí vận chuyển 1.700 đồng/viên = 10.500 đồng/viên x 519 viên = 5.449.500 đồng (năm triệu bốn trăm bốn mươi chín ngàn năm trăm đồng).

Ti Bản kết luận số: 18/2018/KL.HĐĐG ngày 12 tháng 12 năm 2018 của Hội đồng đinh giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện CLD, kết luận: 47 viên gạch ốp tường, nhãn hiệu Thanh Thanh, kích thước (25 x 40)cm màu trắng, giá 10.500 đồng/viên , tổng cộng là 493.500 đồng.

Xét thấy trong khoảng thời gian từ ngày 20/10/2018 đến ngày 06/11/2018 Lâm Hùng E đã nhiều lần thực hiện trộm cắp tài sản của người khác, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CLD đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Lâm Hùng E về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ Luật Hình sự và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18/02/2019 đến khi kết thúc phiên tòa xét xử sơ thẩm.

Đi với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn M đã có hành vi trộm cắp gạch của công trình cho bị cáo 20 thùng nhưng kết quả điều tra không đủ chứng cứ chứng minh và kết luận Lê Văn M đã trộm cắp 20 thùng gạch mà chỉ chứng minh được ông Mau đã thực hiện hành vi trộm cắp 07 thùng gạch, ông M tự nguyện trộm cắp gạch cho Hùng E chứ không có yếu tố mua bán hoặc trao đổi vật chất. Do đó, hành vi của ông M không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Công an huyện CLD đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông M với số tiền 1.500.000 đồng.

Đi với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn L mua của Lâm Hùng E 20 thùng gạch ốp tường nhưng Cơ quan Cảnh sát điều tra kết luận: Việc anh L mua gạch của bị cáo Hùng E là hoàn toàn không biết tài sản do người khác phạm tội mà có, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CLD không xem xét xử lý hình sự đối với anh L về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Đi với 47 viên gạch ốp tường (trong đó, cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ được tại mương nước cặp ao nuôi tôm của ông Lâm Văn Đ 37 viên gạch, thu giữ tại mương nước cập nền nhà bơm cát của ông Đ 10 viên), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CLD không chứng minh được người thực hiện hành vi phạm tội nên không xem xét xử lý mà tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau. Đồng thời, Cơ quan Cảnh sát điều tra xác định số gạch trên của bị hại anh Lê Văn R nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại 47 viên gạch nêu trên cho anh R.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CLD đã thu giữ vật chứng: 01 chiếc xe mô tô Honđa Dream II, biển kiểm soát 83D1-07392, xe không có bửng chắn gió, xe màu trắng nâu, ổ khóa sau yên xe đã bị hỏng, xe đã qua sử dụng, có nhiều vết trầy xướt, còn hoạt động bình thường.

Tại bản Cáo trạng số: 05/CT-VKS.CLD, ngày 13 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CLD đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện CLD để xét xử Lâm Hùng E về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố Nhà nước đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Cáo trạng số: 05/CT-VKS.CLD, ngày 13 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CLD. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là: Bị cáo không có tiền án, không có tiền sự; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự thú về những lần phạm tội của bị cáo và bị cáo đã nộp số tiền 950.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện CLD để khắc phục bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên phạt bị cáo Lâm Hùng E từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án; về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã nộp số tiền 950.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện CLD để khắc phục theo yêu cầu của người bị hại, nên không đặt ra xem xét.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc xe mô tô Honđa Dream II, biển kiểm soát 83D1-07392, xe không có bửng chắn gió, xe màu trắng nâu, ổ khóa sau yên xe đã bị hỏng, xe đã qua sử dụng, có nhiều vết trầy xướt.

- Tại phiên tòa, Vị Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất với Cáo trạng đã truy tố và đề nghị của Vị Kiểm sát viên. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử áp khoản 1 Điều 173; các tình tiết giảm nhẹ tại các điểm b, i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017), cho bị cáo Lâm Hùng E được hưởng án treo.

- Tại biên bản ghi lời khai ngài 09/4/2019, ý kiến của bị hại Lê Văn R: Về trách nhiệm hình sự, yêu cầu xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật; Về trách nhiệm dân sự: Yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại số tiền mà Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chứng minh được.

- Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn L không có ý kiến gì.

- Ý kiến của bị cáo Lâm Hùng E: Xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CLD, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CLD, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người bị hại anh Lê Văn R, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn M, những người làm chứng anh Phan Thanh T và chị Trần Thị T vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Do việc vắng mặt của anh R, ông Mau, anh T và chị T tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc xét xử, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng nêu trên theo quy định của pháp luật.

[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên toà hôm nay bị cáo Lâm Hùng E thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra, bản ảnh thực nghiệm điều tra và các chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu giữ trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, đã có đủ căn cứ xác định: Trong khoảng thời gian từ ngày 20/10/2018 đến ngày 06/11/2018, bị cáo Lâm Hùng E đã có hành vi lén lút nhiều lần thực hiện hành vi lấy trộm gạch ốp tường của công trình xây dựng Trung tâm y tế huyện CLD, tọa lạc tại ấp B, thị trấn D, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng do anh Lê Văn R làm chủ đầu tư với số lượng gạch ốp tường là 519 viên, mỗi viên trị giá 10.500 đồng, tương đương với số tiền là 5.449.500 đồng.

Hành vi của bị cáo gây ra như đã nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người đủ tuổi và đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã gây ra, bản thân bị cáo nhận thức được việc lén lút trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì bản tính lười lao động và muốn có tiền để tiêu xài, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi lấy trộm 519 viên gạch ốp tường, tương đương với số tiền 5.449.500 đồng của công trình xây dựng Trung tâm y tế huyện CLD, do anh Lê Văn R làm chủ đầu tư, nên bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, với hành vi phạm tội đã thực hiện, bị cáo phải bị trừng trị đích đáng theo quy định pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng một mức án nghiêm khắc đối với bị cáo, để có tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Cho nên Cáo trạng số: 05/CT-VKS.CLD, ngày 13 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CLD truy tố bị cáo Lâm Hùng E phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, chưa có tiền sự; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự khai ra 05 lần phạm tội và bị cáo đã nộp số tiền 950.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện CLD để khắc phục bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử sẽ áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm điểm b, i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lâm Hùng E nhằm giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Đồng thời cũng thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với bị cáo.

[5] Ngoài ra, bị cáo có nhân thân tốt; có nơi cư trú rõ ràng; bị cáo có khả năng tự cải tạo, nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà chỉ áp dụng hình phạt cải tạo bị cáo tại địa phương, cho bị cáo biết được hành vi của mình là vi phạm pháp luật để trở thành người có ích cho xã hội sau này. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo đủ điều kiện cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, nên chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện CLD cho bị cáo được hưởng án treo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã nộp số tiền 950.000 đồng (tương đương với 09 thùng gạch ốp tường mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CLD đã chứng minh được do bị cáo trộm) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện CLD theo biên lai thu tiền số 009174 ngày 25/6/2019 để khắc phục theo yêu cầu của người bị hại, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét thêm về phần trách nhiệm dân sự.

[7] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô Honđa Dream II, biển kiểm soát 83D1-07392, xe không có bửng chắn gió, xe màu trắng nâu, ổ khóa sau yên xe đã bị hỏng, xe đã qua sử dụng, có nhiều vết trầy xướt, bị cáo đã dùng làm phương tiện, công cụ phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[8] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn M, đã có hành vi trộm cắp gạch của công trình cho bị cáo 20 thùng nhưng kết quả điều tra chỉ chứng minh được ông M đã thực hiện hành vi trộm cắp 07 thùng gạch, ông M tự nguyện trộm cắp gạch cho bị cáo chứ không có yếu tố mua bán hoặc trao đổi vật chất. Do đó, hành vi của ông M không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Công an huyện CLD đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

[9] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Văn L, đã mua của bị cáo Lâm Hùng E 20 thùng gạch ốp tường, nhưng anh L hoàn toàn không biết tài sản do bị cáo phạm tội mà có, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CLD không đủ cơ sở để xử lý trách nhiệm hình sự đối với anh L.

[10] Xét lời đề nghị của Vị Kiểm sát viên là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Lời đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Về án phí: Do bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lâm Hùng E phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 2, Điều 6 Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Xử phạt bị cáo Lâm Hùng E 09 (chín) tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 tháng kể từ ngày 27/6/2019.

Giao bị cáo Lâm Hùng E cho Ủy ban nhân dân thị trấn D, huyện CLD, tỉnh Sóc Trăng để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Tiếp tục quản lý số tiền 950.000 đồng do bị cáo Lâm Hùng E đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện CLD theo biên lai thu tiền số 009174 ngày 25/6/2019 để khắc phục thiệt hại cho người bị hại anh Lê Văn R.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 chiếc xe mô tô Honđa Dream II, biển kiểm soát 83D1-07392, xe không có bửng chắn gió, xe màu trắng nâu, ổ khóa sau yên xe đã bị hỏng, xe đã qua sử dụng, có nhiều vết trầy xướt.

5. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, bị cáo Lâm Hùng E được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

7. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về