Bản án 06/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 06/2019/HS-ST NGÀY 24/01/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 24 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn Q – Sinh ngày 14 tháng 12 năm 1983 tại huyện H, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn Tr, xã N, huyện H, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và bà Bùi Thị Tr; bị cáo có vợ và 01 con; Tiền án: Không; Tiền sự:

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 67 ngày 08/3/2018 Công an thành phố T xử phạt Lê Văn Q 1.500.000đồng về hành vi đánh bạc. Bị cáo chấp hành xong ngày 09/3/2018. 

Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 02/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 05 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp (Có mặt).

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Phạm Lý Tr, sinh năm: 1987; Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 8, xã Đ, thành phố T, tỉnh Ninh Bình;

- Ông Trần Biên S, sinh năm: 1957; Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 3, xã Đ, thành phố T, tỉnh Ninh Bình;

- Ông Nguyễn Viết H1, sinh năm: 1963; Vắng mặt.

Nơi ĐKHKTT: Xóm 4, xã Th, huyện Th, tỉnh Ninh Bình

Chỗ ở hiện nay: Tổ 2, phường B, thành phố T, tỉnh Ninh Bình

- Ông Vũ Văn H, sinh năm: 1968; Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn B, xã N, huyện H, tỉnh Ninh Bình;

- Anh Phạm Văn Ph, sinh năm: 1980; Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn 7, xã Đ, thành phố T, tỉnh Ninh Bình;

- Ông Đinh Kim H, sinh năm: 1963; Vắng mặt. Địa chỉ: Tổ 19, phường B, thành phố T, tỉnh Ninh Bình;

- Anh Ngô Văn T, sinh năm: 1989; Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn T, xã Kh, huyện Y, tỉnh Ninh Bình

- Người chứng kiến: Ông Phạm Khắc V - Sinh năm 1957; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 16/10/2018 Lê Văn Q, Phạm Văn Ph, Phạm Lý Tr và Đinh Kim H đều là công nhân của Doanh nghiệp X đang thi công tại mỏ đá thuộc thôn 3, xã Đ, thành phố T đi liên hoan về, sau đó vào phòng ăn của công trường uống nước. Tại đây thấy sẵn có bộ bài tú lơ khơ trên bàn để ti vi nên Q, Ph, Tr, H2 đã rủ nhau đánh bài ăn tiền. Cả bốn người thống nhất đánh liêng với mức độ thắng thua mỗi ván đóng tiền gà 5.000 đồng, phạt hết nước 50.000 đồng. Q, Ph, H2, Tr chơi được khoảng 20 phút thì Trần Biên S, Nguyễn Viết H và Ngô Văn T cũng là công nhân tại mỏ đá đến và tham gia đánh liêng cùng. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày khi Q, Ph, Tr, H2, S, H1, T đang đánh bài ăn tiền thì bị Công an thành phố Tam Điệp kiểm tra phát hiện lập biên bản vi phạm hành chính. Tại chỗ tổ công tác đã thu giữ số tiền 1.030.000 đồng tại chiếu bạc, 01 bộ tú lơ khơ 52 quân, 02 ví gấp của Ngô Văn T và Trần Biên S. Ngoài ra các đối tượng còn tự nguyện giao nộp số tiền để trong người là 3.300.000 đồng, trong đó của Đinh Kim H 400.000 đồng, của Ngô Văn T 500.000 đồng, của Trần Biên S 1.800.000 đồng, của Phạm Lý Tr 600.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định tổng số tiền Q, Ph, Tr, H2, S, H2, T sử dụng vào việc đánh bạc là 1.030.000 đồng trong đó của Q là 260.000 đồng, của của Tr là 60.000 đồng, của T là 80.000 đồng, của H1 là 270.000 đồng, của Ph là 190.000 đồng, của S là 40.000 đồng, của H2 là 130.000 đồng.

Quá trình điều tra, bị cáo Lê Văn Q đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 05/CT – VKS ngày 04 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Lê Văn Q ra trước Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp để xét xử về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn Q phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i và s khoản 1 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự ;

- Phạt tiền Lê Văn Q từ 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) đến 25.000.000 đồng ( Hai mươi lăm triệu đồng)

- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 1.030.000 đồng.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 52 quân.

Trong quá trình điều tra ông Phạm Khắc V trình bày: Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 16/10/2018 ông được tổ công tác Công an thành phố Tam Điệp mời đến công trường xây dựng X tại thôn 3, xã Đ, thành phố T để chứng kiến việc cơ quan Công an lập biên bản sự việc đối với những người có hành vi đánh bạc. Tại đây những người này khai rõ họ tên tuổi, địa chỉ và cùng khai đang sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân để đánh bạc bằng hình thức đánh liêng được thua bằng tiền. Lực lượng Công an thu giữ tổng số tiền là 4.330.000 đồng, 01 bộ bài tú lơ khơ của những người này đã sử dụng vào việc đánh bạc.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, biên bản sự việc, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phù hợp với tang vật đã thu giữ. Mặt khác được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận vào chiều ngày 16/10/2018 Lê Văn Q đã cùng với Phạm Lý Tr, Đinh Kim H, Phạm Văn Ph, Trần Biên S, Nguyễn Viết H và Ngô Văn T đánh bạc bằng hình thức đánh liêng được thua bằng tiền và sử dụng số tiền đánh bạc là 1.030.000 đồng song bản thân Lê Văn Q vào ngày 08/3/2018 đã bị Công an thành phố Tam Điệp xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự “ Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Từ căn cứ trên thấy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo Lê Văn Q về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xảy ra vào ban ngày, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn xã Đ nói riêng và trên địa bàn thành phố T nói chung. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật và có mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục cải tạo bị cáo đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[3] Đối với bị cáo Lê Văn Q là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh bạc nhằm mục đích tạo ra thu nhập bất chính bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện. Bản thân Lê Văn Qu đã có một tiền sự về tội đánh bạc chưa được xóa nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc. Do đó cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương ứng với hành vi của bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i và s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Xét tính chất hành vi phạm tội, số tiền mà bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền đối với bị cáo cũng đủ để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích .

[6] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”. Do áp dụng hình phạt chính đối với bị cáo là phạt tiền nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lê Văn Q .

[7] Trong vụ án này còn có Phạm Lý Tr, Đinh Kim H, Phạm Văn Ph, Trần Biên S, Nguyễn Viết H và Ngô Văn T chưa có tiền án, tiền sự về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Ngày 16/10/2018 đã thực hiện hành vi đánh liêng được thua bằng tiền cùng với Lê Văn Q với số tiền sử dụng đánh bạc là 1.030.000 đồng. Nên hành vi của Tr, H2, Ph, H1, S và T chưa đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc. Do vậy Công an thành phố Tam Điệp đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Lý Tr, Đinh Kim Hg, Phạm Văn Ph, Trần Biên S, Nguyễn Viết H và Ngô Văn T là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với ông Vũ Văn H là người quản lý nhà ăn của công trường nhưng ông H không biết việc các đối tượng đánh bạc tại nhà ăn của công trường do mình quản lý và cũng không thu bất kỳ khoản tiền nào của bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên không có căn cứ xử lý đối với ông Vũ Văn H.

[8] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Đối với số tiền 1.030.000 đồng đã thu giữ đây là số tiền mà bị cáo và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án sử dụng vào việc đánh bạc cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước là phù hợp với điểm b, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 52 quân đây là công cụ mà bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án sử dụng vào việc đánh bạc, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với số tiền 3.300.000 đồng do Đinh Kim H, Phạm Lý Tr, Trần Biên S và Ngô Văn T tự nguyện giao nộp quá trình điều tra xác định H2, Tr, S và T không sử dụng số tiền này để đánh bài ăn tiền. Vì vậy Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho H2, Tr, S, T nên không đặt ra xem xét;

Đối với 02 ví gấp thu giữ của Trần Biên S và Ngô Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho S và T nên không đặt ra xem xét;

[9] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Bị cáo; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; Các điểm i và s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

1/ Tuyên bố:Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Bị cáo Lê Văn Q phạm tội: Đánh bạc.

Xử phạt bị cáo như sau: Phạt tiền Lê Văn Q 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.

2/ Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 1.030.000 đồng

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 52 quân.

Những vật chứng trên Công an thành phố Tam Điệp đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp theo theo giấy ủy nhiệm chi ngày 08 tháng 01 năm 2019 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 05 tháng 01 năm 2019 giữa Công an thành phố Tam Điệp và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp.

3/ Về án phí:

Buộc bị cáo Lê Văn Q phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:06/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về