Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 20/03/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/03/2019 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 20 tháng 3 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc mở phiên tòa công khai xét xử vụ án hôn nhân đã thụ lý số 387/2018/TLST-HN ngày 12/12/2018 về việc: “Xin ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2019/QĐXXST-HN ngày 08/3/2019. Giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị Tuyết M, sinh năm 1979 (xin vắng mặt)

Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện M, tỉnh B.

Bị đơn: Phan Hòa K, sinh năm 1982 (xin vắng mặt)

Địa chỉ: ấp C, xã T, huyện M, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/10/2018 và lời trình bày trong quá trình giải quyết nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết M trình bày:

Chị Mai và anh Phan Hòa K kết hôn vào năm 2006, dựa trên điều kiện quen biết và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phước Mỹ Trung. Sau khi kết hôn chị M và anh K sống hạnh phúc được hơn hai năm thì phát sinh mâu thuẩn, theo chị M cho rằng anh K đi sớm về trể và không chung thủy. Chị M đã cho anh K nhiều lần sửa đổi nhưng anh K không sửa đổi. Nay chị M thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn. Con chung Phan Thành L, sinh ngày 18/01/2008, Phan Thành N, sinh ngày 25/7/2015. Chị M yêu cầu được nuôi hai con không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung: không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh Phan Hòa K trình bày: Điều kiện và thời gian kết hôn như chị M trình bày. Nguyên nhân mất hạnh phúc là do lúc đầu kinh tế khó khăn, sau về bên vợ sống nên vợ chồng bất đồng quan điểm. Nay anh K không đồng ý ly hôn do còn thương con, thương vợ. Con chung như chị M trình bày, nếu tòa án cho ly hôn anh K đồng ý nguyện vọng của cháu L, anh K đồng ý chị M nuôi hai con. Cháu Phan Thành L trình bày: Nếu cha mẹ ly hôn con có nguyện vọng sống với mẹ.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc phát biểu: Việc tuân theo pháp luật của thẩm phán trong quá trình thụ lý vụ án và giải quyết đúng quy định của pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của hội đồng xét xử tại phiên tòa đúng quy định của pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của đương sự trong quá trình thụ lý và giải quyết thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng điều 55, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Tuyết M, chị Nguyễn Thị Tuyết M được ly hôn với anh Phan Hòa K. Con chung chị M trực tiếp nuôi cháu Phan Thành L, sinh ngày 18/01/2008, Phan Thành N, sinh nay 25/7/2015, anh K không phải cấp dưỡng nuôi con do chị M không yêu cầu. Tài sản chung, nợ chung chị M, anh K trình bày không có nên không xen xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết M yêu cầu xin ly hôn với anh Phan Hòa K nên căn cứ vào điều 51 Luật hôn nhân gia đình xác định quan hệ tranh chấp là “ Ly hôn”.

[2] Thẩm quyền xét xử: Theo xác nhận ngày 16/10/2018 của Công an xã Thạnh Ngãi đã xác nhận anh Phan Hòa K hiện đang sinh sống tại xã T, huyện M, tỉnh B. Căn cứ vào Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.

[3] Nội dung vụ án:

Chị Nguyễn Thị Tuyết M và anh Phan Hòa K có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị M và anh K.

Chị Nguyễn Thị Tuyết M và anh Phan Hòa K kết hôn vào năm 2006 điều kiện kết hôn nhân là do quen biết và tự nguyện đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại ký kết hôn tại UBND xã Phước Mỹ Trung. Như vậy, hôn nhân của chị Nguyễn Thị Tuyết M và anh Phan Hòa K là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Tuyết M, chị M cho rằng nguyên nhân vợ chồng mất hạnh phúc là do anh K đi sớm về khuya, không chung thủy, chị M nhiều lần cho anh K sửa đổi nhưng anh K không sửa đổi. Còn anh Phan Hòa K cho rằng do sau khi kết hôn kinh tế khó khăn, chị M, anh K về bên chị M sống nên phát sinh mâu thuẩn. Do anh K còn thương vợ thương con nên không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy anh K không đồng ý ly hôn nhưng anh không đưa ra được hướng để khắc phục nguyên nhân mất hạnh phúc để vợ chồng về đoàn tụ xây dựng gia đình no ấp, hạnh phúc. Trong quá trình giải quyết vụ án chị M cương quyết ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị Nguyễn Thị Tuyết M và anh Phan Hòa K không khắc phục

được, mục đích hôn nhân giữa hai anh chị không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu của chị M là có căn cứ.

[4] Con chung: Phan Thành L, sinh ngày 18/01/2008, Phan Thành N, sinh ngày 25/7/2015. Chị Nguyễn Thị Tuyết M và anh Phan Hòa K thỏa thuận chị M trực tiếp nuôi con, anh không cấp dưỡng nuôi con, đây cũng là nguyện vọng của cháu Phan Thành L xét thấy chị M, anh K thỏa thuận việc nuôi con không trái với quy định của pháp luật nên tòa ghi nhận.

[5] Tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Tuyết M và anh Phan Hòa K trình bày không có nên không xem xét.

[6] Nợ chung: Chị Nguyễn Thị Tuyết M và anh Phan Hòa K trình bày không có nên không xem xét.

[7] Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, chị Nguyễn Thị Tuyết M phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

[8] Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Tuyết M. Chị Nguyễn Thị Tuyết M được ly hôn với anh Phan Hòa K.

2. Về nuôi con chung: chị Nguyễn Thị Tuyết M trực tiếp nuôi Phan Thành L, sinh ngày 18/01/2008, Phan Thành N, sinh nay 25/7/2015, anh K không phải cấp dưỡng nuôi con do chị M không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật khác có liên quan. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Vì lợi ích con chung chưa thành niên, theo yêu cầu của chị M, anh K Tòa án có thể thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Tuyết M và anh Phan Hòa K trình bày không có nên không xem xét.

4. Nợ chung: Chị Nguyễn Thị Tuyết M và anh Phan Hòa K trình bày không có nên không xem xét.

5. Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, chị Nguyễn thị Tuyết M phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0000304 ngày 12/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Bắc.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày tòa án tống đạt bản án hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 20/03/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về