Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 18/02/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/02/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 18/02/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 358/2018/TLST-HNGĐ ngày 19/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/11/2018 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 03/2018/QĐST-HNGĐ ngày 10/01/2019, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Hoàng Đức Đ, sinh năm 1964 (Có mặt).

* Bị đơn: Bà Hoàng Thị N, sinh năm 1966 (Vắng mặt).

Đều địa chỉ: Thôn Đ, xã T, thành phố B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Hoàng Đức Đ trình bày:

Ông với bà Hoàng Thị N kết hôn năm 1985 và chung sống với nhau từ năm 1985, ông bà kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn, đã được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo nghi lễ truyền thống. Tuy nhiên, hiện tại ông cũng không nhớ là ông và bà Ngọc Anh có đi đăng ký kết hôn hay không. Ông đã ra UBND xã Tân Mỹ, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang nhiều lần tìm kiếm và xin lại đăng ký kết hôn thì không tìm thấy. Do vậy, đến nay ông không thể cung cấp được cho Tòa án giấy chứng nhận kết hôn giữa ông và bà Ngọc Anh. Sau khi kết hôn ông và bà Ngọc Anh về chung sống với nhau ngay tại xã Tân Mỹ, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

Cuộc sống vợ chồng tôi ngay từ khi kết hôn xong đã không được hạnh phúc.

Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng thường xuyên căng thẳng, cãi vã, thậm chí xô sát nhau. Tuy nhiên, vì con cái mà ông và bà Ngọc Anh vẫn chịu đựng và chung sống cùng nhau. Nhưng từ năm 2005, do không thể chịu đựng thêm nên ông và bà Ngọc Anh đã ly thân. Bà Ngọc Anh thường xuyên bỏ nhà đi thi thoảng mới lại về. Từ đó đến nay vợ chồng đã không ai quan tâm gì đến ai.

Nay ông xác định mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng, không thể hàn gắn và ông cũng không còn tình cảm vợ chồng gì với bà Ngọc Anh nữa. Do vậy, ông đề nghị Tòa án cho ông được ly hôn với bà Ngọc Anh.

Về con chung: Ông và bà Ngọc Anh có 02 con chung là Hoàng Thùy Linh, sinh năm 1987 và Hoàng Thiên Thành, sinh năm 1980. Hiện tại cả hai con chung đều đã trưởng thành, có gia đình riêng nên ông không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Ông và bà Ngọc Anh sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là bà Hoàng Thị N trình bày:

Bà và ông Đạt kết hôn ngày 14/11/1986 âm lịch, đăng ký tại UBND xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng (nay là thành phố Bắc Giang), tỉnh Bắc Giang. Bà và ông Đạt chung sống với nhau từ năm 1986, bà và ông Đạt kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn, đã được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo nghi lễ truyền thống. Tuy nhiên, hiện tại bà cũng không biết là Giấy chứng nhận kết hôn của vợ chồng hiện ở đâu. Do vậy, đến nay bà không thể cung cấp được cho Tòa án giấy chứng nhận kết hôn giữa bà và ông Đạt. Sau khi kết hôn bà và ông Đạt về chung sống với nhau ngay tại xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng (nay là thành phố Bắc Giang), tỉnh Bắc Giang.

Từ khi kết hôn đến nay, cuộc sống vợ chồng vẫn bình thường. Ông Đạt làm đơn xin ly hôn với bà là do ông Đạt ngoại tình, không quan tâm gì đến vợ con. Khoảng tháng 8/2018, bà phát hiện ra sự việc ông Đạt ngoại tình nên có khuyên ngăn ông Đạt nhưng ông Đạt không nghe mà còn đánh đập bà. Nhưng nay, bà vẫn nhẫn nhịn, sống vì con nên bà và ông Đạt vẫn chung sống tại thôn Đông Lý nhưng hiện bà vẫn đi lại giữa Hà Nội với Bắc Giang nên rất ít khi có mặt ở địa phương.

Nay bà xác định vẫn còn tình cảm vợ chồng với ông Đạt, nên bà không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông Đạt. Trường hợp ông Đạt nhất quyết ly hôn thì bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Bà và ông Đạt có 02 con chung là Hoàng Thùy Linh, sinh năm 1987 và Hoàng Thiên Thành, sinh năm 1990. Hiện tại hai con chung đã trưởng thành, có gia đình riêng nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Bà và ông Đạt tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Biên bản xác minh ngày 20/9/2018, đại diện chính quyền địa phương tại Thôn Đ, xã T, thành phố B cung cấp: Ông Đạt, bà Ngọc Anh là vợ chồng, hiện vẫn đăng ký hộ khẩu tại địa phương. Quá trình chung sống tại địa phương, thì thời gian gần đây, giữa ông Đạt và bà Ngọc Anh có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn hợp nhau nữa. Từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Bà Ngọc Anh và ông Đạt đã ly thân được mấy năm nay. Từ khi ly thân, bà Ngọc Anh không còn chung sống cùng ông Đạt ở địa phương nữa, chỉ thi thoảng mới về địa phương.

Biên bản xác minh ngày 20/9/2018, UBND xã Tân Mỹ, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang cung cấp: Thời điểm trước năm 2000 thì UBND xã Tân Mỹ không còn lưu trữ sổ đăng ký kết hôn. Do đó, UBND xã Tân Mỹ không có căn cứ để trả lời Tòa án việc ông Đạt, bà Ngọc Anh có đăng ký kết hôn hay không. Tuy nhiên, trên thực tế, qua xác minh tại địa phương thì ông Đạt, bà Ngọc Anh chung sống cùng nhau từ năm 1985 tại địa phương đến nay. Ông Đạt, bà Ngọc Anh được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới công khai bình thường tại địa phương. Quá trình chung sống từ năm 1985 đến nay thì ở địa phương ai cũng công nhận ông Đạt, bà Ngọc Anh là vợ chồng và trong sổ hộ khẩu thường trú của gia đình cũng thể hiện mối quan hệ vợ chồng giữa ông Đạt và bà Ngọc Anh.

Ngày 25/12/2018, bà Ngọc Anh cung cấp cho Tòa án 01 bản photo Trích lục quyết định nhân sự số 145/2006/TL-VA ngày 24/9/2006 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Bà cho rằng, ông Đạt đã đưa cho bà tài liệu này và nói là vợ chồng đã ly hôn. Bàcũng không biết tại sao lại ông Đạt lại có tài liệu này. Nay bà đề nghị Tòa án xác minh làm rõ.

Biên bản làm việc ngày 03/01/2019: Ông Đạt không thừa nhận việc đã cung cấp bản photo Trích lục quyết định nhân sự số 145/2006/TL-VA ngày 24/9/2006 cho bà Ngọc Anh và bà Ngọc Anh cũng thừa nhận không cung cấp được tài liệu, nhân chứng nào thể hiện việc ông Đạt cung cấp cho bà tài liệu trên.

Ngày 10/01/2019, Tòa án mở phiên tòa xét xử đối với vụ án. Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa để xác minh, thu thập chứng cứ đối với bản photo Trích lục quyết định nhân sự số 145/2006/TL-VA ngày 24/9/2006 mà bà Ngọc Anh cung cấp cho Tòa án.

Biên bản xác minh ngày 23/01/2019, Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang cung cấp: Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng chưa bao giờ thực hiện việc cấp văn bản như bản Trích lục quyết định nhân sự số 145/2006/TL-VA ngày 24/9/2006. Kiểm tra sổ thụ lý vụ án hôn nhân gia đình năm 2006 thì cũng không có trường hợp nào tên là Hoàng Đức Đ xin ly hôn với người nào tên là Hoàng Thị N.

Tại phiên tòa hôm nay, bà Ngọc Anh vắng mặt, ông Đạt giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự như không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, không tham gia hòa giải, không tham gia phiên tòa.

- Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Xử:

+ Ông Hoàng Đức Đ được ly hôn bà Hoàng Thị N.

+ Về án phí: Ông Đạt phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Xét yêu cầu khởi kiện của ông Đạt thì thấy đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân gia đình về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang theo khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1  Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bà Ngọc Anh có đơn xin hoãn phiên tòa nhưng không cung cấp được lý do chính đáng cho việc vắng mặt, đã được Toà án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt đối với bà Ngọc Anh.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Ông Đạt và bà Ngọc Anh không cung cấp được cho Tòa án Giấy chứng nhận kết hôn. Tuy nhiên, qua xác minh tại địa phương, cũng như căn cứ vào lời khai của các đương sự thì giữa ông Đạt, bà Ngọc Anh có tổ chức lễ cưới theo nghi lễ truyền thống và công khai sống chung như vợ chồng tại địa phương từ năm 1985 đến nay. Việc ông Đạt, bà Ngọc Anh chung sống với nhau, tổ chức lễ cưới trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được tự do tìm hiểu trước khi chung sống. Hơn nữa, trong hộ khẩu của gia đình tại địa phương cũng thể hiện mối quan hệ vợ chồng giữa ông Đạt và bà Ngọc Anh. Do vậy, căn cứ vào điểm a mục 3 Nghị quyết số: 35/2000/NQ-QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc Hội để công nhận ông Đạt, bà Ngọc Anh là vợ chồng.

Quá trình chung sống, qua xác minh tại địa phương thì thấy vợ chồng đã nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Hiện tại vợ chồng đã ly thân, bà Ngọc Anh rất ít khi về chung sống với ông Đạt tại địa phương. Mặc dù bà Ngọc Anh không đồng ý ly hôn nhưng xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hơn nữa, ông Đạt cũng xác nhận không còn tình cảm vợ chồng với bà Ngọc Anh. Do vậy, cần áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để xử cho ông Đạt được ly hôn bà Ngọc Anh.

[3] Về con chung: Các con chung đều đã trưởng thành, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Vấn đề khác: Quá trình giải quyết vụ án, bà Ngọc Anh có cung cấp cho Tòa án bản photo Trích lục quyết định nhân sự số 145/2006/TL-VA ngày 24/9/2006 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Tuy nhiên, bà Ngọc Anh không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh nguồn gốc của tài liệu trên, Tòa án cũng đã xác minh tại Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang nhưng cũng không có kết quả về nguồn gốc tài liệu này. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết đối với tài liệu trên trong vụ án này.

[6] Về án phí: Ông Đạt phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56; Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Điểm a mục 3 Nghị quyết số: 35/2000/NQ-QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc Hội;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Hoàng Đức Đ được ly hôn bà Hoàng Thị N.

2. Về án phí: Ông Đạt phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Giang theo biên lai số AA/2012/07012 ngày 18/9/2018. Xác nhận ông Đạt đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Ông Đạt có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bà Ngọc Anh vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 18/02/2019 về ly hôn

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về