Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 11/04/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/04/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 4 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 496/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2018 về việc: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXX-ST ngày 07 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa ngày 25/3/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trương Thị Thùy T, sinh năm 1993

Địa chỉ: Ấp X, xã XB, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt);

2. Bị đơn: Ông Lê Văn H, sinh năm 1995

Địa chỉ: Tổ Y, khu phố P, phường M, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 12 tháng 8 năm 2018 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn – bà Trương Thị Thùy T trình bày:

Bà Trương Thị Thùy T và ông Lê Văn H có thời gian tìm hiểu khoảng 03 tháng thì tiến tới hôn nhân, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã XB, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào năm 2016.

Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến tháng 7 năm 2018 âm lịch thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do: Tính cách vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm; hay xảy ra cãi vã; thậm chí còn xảy ra tình trạng ông H chửi bới, xúc phạm và đánh đập bà T.

Từ ngày 14/8/2018 âm lịch đến nay, bà T và ông H sống ly thân, bà T quay về nhà mẹ đẻ sống. Tuy nhiên, mỗi lần đến để được đưa con về và chăm sóc con thì đều bị ông H và gia đình chồng xúc phạm, đánh đập.

Nay bà T nhận thấy: khả năng hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng là không thể đạt được, cuộc sống chung giữa hai người không thể kéo dài hơn, tình cảm vợ chồng đã hết; do vậy, bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về hôn nhân: bà T yêu cầu được ly hôn với ông Lê Văn H.

Về con chung: Có 01 con chung, tên là Lê Văn M, sinh ngày 08/12/2017; bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu M, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án và tại các phiên tòa, bị đơn – ông Lê Văn H đã được Tòa án niên yết Giấy triệu tập tham gia hòa giải đoàn tụ, Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông H vẫn vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến trình bày của ông H.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ cho rằng:

Về trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng theo quy định của Luật tố tụng dân sự, cụ thể: thu thập tài liệu chứng cứ đúng quy định, xác định đúng quan hệ tranh chấp, đúng thẩm quyền giải quyết, các quyền và nghĩa vụ của đương sự đã được thực hiện đầy đủ.

Về nội dung vụ án: Qua trình bày của đương sự, cùng tài liệu có trong hồ sơ vụ án nhận thấy: Mâu thuẫn giữa bà T và ông H là có thật, xuất phát từ việc ông H có hành vi bạo lực với bà T, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Thùy T vì cuộc hôn nhân vợ chồng giữa bà T và ông H không H được, mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn; theo đó, bà T được ly hôn với ông Lê Văn H. Hiện nay cháu Lê Văn M chưa đủ 36 tháng tuổi rất cần sự chăm sóc từ người mẹ nên giao cho bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là có căn cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Căn cứ vào đơn khởi kiện của bà Trương Thị Thùy T thì Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”; bị đơn ông Lê Văn H có địa chỉ tại thị xã Phú Mỹ; nay có tranh chấp nên xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ theo quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Bị đơn - ông Lê Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ, tuy nhiên ông H vắng mặt lần thứ 2 tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan, nên Hội đồng xét xử không hoãn phiên tòa mà tiếp tục xét xử theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Bà Trương Thị Thùy T và ông Lê Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đúng pháp luật, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã XB, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào năm 2016 nên xác định đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.

Tại phiên tòa, bà T cương quyết ly hôn, vì cho rằng: tính cách vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên bất đồng quan điểm; ông H luôn xúc phạm, đánh đập bà Hoa. Từ tháng 8 năm 2018, bà T và ông H đã sống ly thân, kể từ đó mỗi người ở mỗi nơi, nên không còn tình cảm vợ chồng với ông H nữa.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tòa án đã tiến hành tống đạt cho ông H tham gia giải quyết vụ án và tham gia phiên hòa giải đoàn tụ; tuy nhiên, ông H không lên Tòa án làm việc, hòa giải. Chính sự vắng mặt của ông H, nên Tòa án không thể hàn gắn được mâu thuẫn giữa vợ chồng bà T và ông H.

Mặt khác, tại Công văn số 43/CAP ngày 22/01/2019 của Công an phường M đã xác nhận: “Công an phường M có tiếp nhận đơn tố cáo của bà T về việc bị ông H và bố chồng đánh đập gây thương tích. Công an đã mời ông H và bố chồng Lê Văn Dương lên làm việc, tại đây Hoa thừa nhận hành vi đánh vợ bằng chai nước rửa chén, bằng tay. Công an đã ra Quyết định xử phạt hành chính số 71/QĐ-XPVPHC ngày 15/12/2018 đối với Lê Văn H về hành vi “Sử dụng các công cụ, phương tiện và các vật dụng khác gây thương tích cho các thành viên gia đình”.

Từ đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: mâu thuẫn vợ chồng bà T, ông H là có thật, phát sinh từ bạo lực gia đình, đã dẫn đến cuộc sống hôn nhân giữa bà T và ông H không đạt được, mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn. Vì vậy, căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông H là hoàn toàn có cơ sở.

[2.2] Về con chung: Bà T, ông H có 01 con chung tên là Lê Văn M, sinh ngày 08/02/2017.

Xét yêu cầu được nuôi con của bà T thì thấy: Trong thời gian sống ly thân, bà T nhiều lần yêu cầu gia đình ông H đón cháu M về để trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng nhưng đều bị can ngăn từ ông H và gia đình chồng. Đặc biệt, Công an đã cử người xuống can thiệp, hỗ trợ cho bà T được đón con nhưng gia đình ông H không cho. Việc ông H và gia đình không cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con của mình là vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. Mặt khác, cháu M cũng chưa đủ 36 tháng tuổi, nên rất cần sự chăm sóc từ người mẹ. Ngoài ra, bà T đang là công nhân, có thu nhập với mức lương khoảng 5.000.000 đồng đến 6.500.000 đồng. Do đó, căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu M cho bà T trực tiếp nuôi là hoàn toàn phù hợp.

[2.3] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa, bà T không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà T phải nộp 300.000 đồng.

Vì các trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84Luật hôn nhân và gia đình 2014; Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Thùy T về việc: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”;

2.1. Về hôn nhân: Bà Trương Thị Thùy T được ly hôn với ông Lê Văn H;

2.2. Về con chung có 01 con chung tên là Lê Văn M, sinh ngày 08/02/2017; nay giao cháu M cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông H được quyền đến thăm và chăm sóc con chung, không ai có quyền cản trở.

2.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì lợi ích của con, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của pháp luật.

2.4. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Trương Thị Thùy T phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0005449 ngày 03/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ; bà T đã nộp xong.

4. Các đương sự được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (người vắng mặt cũng 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp, bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 11/04/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về