Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 07/03/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG – TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 06/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/03/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 07 tháng 3 năm 2019, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 414/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Chị Dương Thị Th, sinh năm 1976; (có mặt)

ĐKHKTT: Thôn BL, xã MS, huyện HL, tỉnh LS

Tạm trú tại: Số nhà 27, đường CVA, phường VT, thành phố LS, tỉnh LS

2- Bị đơn: anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1973; (vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn Vạc, xã TTh, huyện LG, tỉnh BG

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ghi ngày 10/10/2018, bản tự khai và các lời khai tiếp theo nguyên đơn chị Dương Thị Th trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn Ph đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TTh, huyện LG, tỉnh Bắc Giang ngày 14/11/2006 và có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống với nhau, nhưng những năm gần đây cuộc sống chung không hòa thuận, không hạnh phúc vì lý do anh Ph hay uống rượu say, về đánh đập, chửi bới chị. Vợ chồng chị mâu thuẫn gay gắt vào khoảng tháng 7, tháng 8 năm 2018 và sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gay gắt, không thể hòa giải, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh Ph ly hôn.

Về con chung: Chị và anh Ph có một con chung là Nguyễn Thị Mai A, sinh ngày 17/12/2007, hiện đang học ở trường Trung học cơ sở VT, thành phố LS. Hiện nay chị đang làm ăn ở LS, thu nhập thực tế khoảng 10.000.000 đồng/tháng, có nơi ở ổn định nên đề nghị Tòa án giao con cho chị nuôi, chị không yêu cầu anh Ph đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, không đồng ý để anh Ph nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: không có.

Bị đơn anh Nguyễn Văn Ph tại biên bản ghi lời khai ngày 10/01/2019, ngày 11/02/2019 trình bày: Anh và chị Th kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TTh, huyện LG ngày 14/11/2006 (dương lịch), tổ chức lễ cưới ngày 04/10/2006 (âm lịch). Sau khi kết hôn, vợ chồng anh lên LS làm thuê, ở trên đó, thỉnh thoảng mới về nhà, cuộc sống vợ chồng bình thường. Khoảng tháng 9 năm 2018 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị gái chị Th đã đuổi anh ra khỏi nhà nên anh đã về sinh sống tại nhà anh ở TTh, LG, từ đó đến nay anh và chị Th không qua lại, không liên lạc với nhau. Nay chị Th yêu cầu ly hôn, anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị Th kiên quyết thì anh đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Thị Mai A, sinh ngày 17/12/2007, hiện khỏe mạnh và sinh sống, học tập trên thành phố LS. Vợ chồng ly hôn, anh nhất trí theo ý kiến của cháu Mai A, đồng ý để chị Th nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: không có.

Tại phiên tòa, chị Th có mặt vẫn giữ nguyên ý kiến, quan điểm yêu cầu ly hôn.

Anh Ph vắng mặt không có lý do.

Cháu Nguyễn Thị Mai A trình bày hiện đang học và ở cùng mẹ trên thành phố LS, cháu xin được ở cùng mẹ.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tại phiên toà đã phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều đảm bảo thực hiện nghiêm túc, đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên đề nghị áp dụng điều 227, 228 để xét xử.

Về nội dung vụ án, kiểm sát viên đã phân tích, đánh giá thực trạng mâu thuẫn của chị Th, anh Ph, xét tình trạng mâu thuẫn gay gắt, kéo dài, không thể hòa giải nên đề nghị áp dụng điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình để xử cho chị Th, anh Ph ly hôn. Về con chung, đề nghị giao cháu Nguyễn Thị Mai A, sinh ngày 17/12/2007 cho chị Th nuôi. Về cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét do chị Th không yêu cầu.Về án phí, chị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Về quyền kháng cáo, các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, sau khi thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Đơn khởi kiện của chị Dương Thị Th cùng các tài liệu nộp theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức, nội dung đơn khởi kiện. Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình, cụ thể là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

[2].Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Đối với nguyên đơn đã chấp hành nghiêm túc, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, nên HĐXX căn cứ quy định tại điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị Th và anh Nguyễn Văn Ph đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TTh, huyện LG ngày 14/11/2006, nên quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Lời khai của chị Th và anh Ph đều thừa nhận trong quá trình chung sống đã xảy ra mâu thuẫn, tháng 8 năm 2018 do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng anh, chị sống ly thân, từ đó cho đến nay vợ chồng sống ly thân, không quan tâm, cũng không có sự cố gắng hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, chị Th yêu cầu ly hôn, Tòa án triệu tập anh Ph đến hòa giải song anh Ph không đến, cho đến nay thì anh đồng ý ly hôn chị Th. HĐXX thấy, tình trạng mâu thuẫn của chị Th, anh Ph đã kéo dài, hai bên không mong muốn đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó Tòa án căn cứ điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Dương Thị Th và anh Nguyễn Văn Ph ly hôn.

[4].Về con chung: Chị Th và anh Ph có một con chung là Nguyễn Thị Mai A, sinh ngày 17/12/2007, hiện khỏe mạnh và đang ở cùng chị Th. Nay chị Th xin nuôi con và anh Ph đồng ý, cháu Mai A cũng có nguyện vọng xin ở cùng mẹ nên HĐXX quyết định giao cho chị Th nuôi cháu Nguyễn Thị Mai A. Về cấp dưỡng nuôi con, do chị Th không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra xem xét, giải quyết.

Sau khi ly hôn, anh Ph có quyền thăm nom con chung và không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

[5] Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Th, anh Ph không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điều 56, 57, điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, điều 35; điều 39; điều 70; điều 71; điều 72; điều 147; điều 227; điều 228; điều 235; điều 271; điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí.

[1].Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Dương Thị Th và anh Nguyễn Văn Ph ly hôn.

[2].Về con chung: Giao cho chị Dương Thị Th có quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Mai A, sinh ngày 17/12/2007.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: không đặt ra xem xét, giải quyết.

Sau khi ly hôn, anh Ph có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

[3]. Án phí: Chị Dương Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0006818 ngày 05/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

[4]. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HNGĐ-ST ngày 07/03/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:06/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về