Bản án 06/2018/HS-ST ngày 20/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH,  TỈNH VĨNH LONG 

BẢN ÁN 06/2018/HS-ST NGÀY 20/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 4 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2018/TLST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2018/QĐXXST-HS 02 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo: Trương Ngọc H, sinh năm 1973 tại thị xã Vg, tỉnh Vĩnh Long; Nơi cư trú: Số nhà Z đường X khóm H, phường N, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Ngọc S và bà Tăng Thị T có vợ là Trần Thị Mộng K và 01 con sinh năm 2002; anh chị em ruột có 05 người (lớn nhất sinh năm 1970, nhỏ nhất sinh năm 1978);

Tiền án: Có 03 tiền án. Ngày 05/9/2009 Tòa án nhân dân thị xã T xét xử bị cáo tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, mức án 02 năm tù, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 06/3/2011. Ngày 22/6/2012 Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bến Tre xét xử bị cáo tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, mức án 01 năm 03 tháng tù. Ngày 10/4/2014 Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Trà Vinh xét xử bị cáo tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, mức án 04 năm tù, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/4/2017.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 30/9/2005 bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Đồng Tháp tuyên xử 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 26/2005/HSST.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 22/12/2017 đến nay và có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Bà Đồng Kim D, sinh năm 1968 (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp Đ, xã L, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ ngày 22/12/2017 bị cáo H đi bộ vào khu vực Trung tâm thương mại chợ T thuộc khóm Z, thị trấn T, huyện T, tỉnh Vĩnh Long để tìm tài sản trộm bán lấy tiền tiêu xài. H phát hiện tại tiệm sửa chữa điện cơ Ấ của anh Nguyễn Văn Ấ, sinh năm 1964 ngụ ấp Đ, xã L, huyện T, tỉnh Vĩnh Long làm chủ, có 01 điện thoại di động hiệu Asus màu đen và 01 mắt kính hiệu XEYE của chị Đồng Kim D (vợ của anh Ấ) để trên bàn trong tiệm nên lén lút lấy trộm. Khi H lấy được điện thoại cầm trên tay và bước đi ra khỏi cửa tiệm được khoảng 02 đến 03 bước thì bị chị D phát hiện nên truy hô, H quay lại bỏ điện thoại lên bàn và chụp lấy mắt kính bỏ chạy nhưng bị quần chúng nhân dân bao vây bắt giữ giao cho Công an cùng tang vật là 01 điện thoại di động hiệu Asus màu đen và 01 mắt kính hiệu XEYE.

Tại kết luận số: 207/KL.HĐĐGTS, ngày 28/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tam Bình kết luận: Điện thoại di động Asus, màn hình cảm ứng, mua khoảng tháng 12/2015 có giá trị còn lại là: 1.033.000 đồng; Mắt kính XEYE có giá trị còn lại là 200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo H đã lấy trộm là 1.233.000 đồng.

Về nhân thân: Trương Ngọc H đã có 03 tiền án chưa được xóa án tích: Mặc dù giá trị tài sản dưới mức định lượng nhưng do chưa được xóa án tích nên vẫn cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Về xử lý vật chứng: Ngày 15/01/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiến hành trao trả cho bị hại Đồng kim D: 01 điện thoại di động hiệu Asus, màn hình cảm ứng, màu đen; 01 mắt kính hiệu XEYE, gọng kính màu nâu, hai tròng kính màu trắng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại đủ các tài sản bị lấy trộm và không yêu cầu gì thêm.

Bản cáo trạng số: 05/CT-VKSTB ngày 05/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Bình đã truy tố bị cáo Trương Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Kiểm sát viên nêu quan điểm giải quyết vụ án: Xét bị cáo không chí thú làm ăn, lao động chân chính để tạo ra của cải nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình mà chỉ biết dựa vào sức lao động của người khác để chiếm đoạt tài sản sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân. Bản thân bị cáo đã có 03 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Ngoài ra bị cáo còn có nhân thân xấu, vào năm 2005 bị Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Đồng Tháp xử 09 tháng tù cũng về tội Trộm cắp tài sản (đã xóa án tích). Bản thân bị cáo đã 04 lần chấp hành hình phạt tù để cải tạo, giáo dục nhưng vẫn chưa thức tỉnh, không biết ăn năn hối cải, tu tâm, dưỡng tính mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội để có tiền thỏa mãn những nhu cầu sở thích cá nhân. Bị cáo chưa thực sự ý thức được hành vi sai trái của mình. Bị cáo biết rõ, lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật mà bị cáo đã bất chấp tất cả để phạm tội. Mặc dù lần phạm tội này của bị cáo có giá trị tài sản chỉ là 1.233.000 đồng dưới mức giá trị định khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 nhưng do các lần phạm tội trước đây của bị cáo chưa được xóa án tích nên hành vi của bị cáo vẫn cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một  thời gian đủ để cho bị cáo thức tỉnh, biết ăn năn hối cải, trở thành người công dân có ích cho xã hội khi được hòa nhập cộng đồng.

Xét về tính chất, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, bản thân bị cáo đã có 03 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, nên bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 mà chỉ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ như: Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; Trong quá trình điều tra, truy tố cũng tại phiên Tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo quy định tại điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Từ những phân tích trên, kiểm sát viên đề nghị: Tuyên bố bị cáo Trương Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điều 33; các điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 đề nghị xử phạt bị cáo H mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Đồng Kim D đã nhận lại tài sản xong, không còn yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Ngày 15/01/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Bình đã tiến hành trao trả cho bị hại Đồng kim D: 01 điện thoại di động hiệu Asus, màn hình cảm ứng, màu đen; 01 mắt kính hiệu XEYE, gọng kính màu nâu, hai tròng kính màu trắng.

Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo H phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Thưa Hội đồng xét xử, Viện kiểm sát, bị cáo cũng nhiều lần lầm lỗi nhưng lần này bị cáo quyết tâm chí thú làm ăn, lao động chân chính. Xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo sớm trở về lo cho vợ con của bị cáo, bị cáo cảm ơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu được và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa thể hiện: Vào khoảng 09 giờ ngày 22/12/2017, tại tiệm sửa chữa điện cơ Ấ thuộc khóm Z, thị trấn T, huyện T, tỉnh Vĩnh Long, Trương Ngọc H đã lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Asus, màn hình cảm ứng, màu đen và 01 mắt kính hiệu XEYE, có tổng giá trị 1.233.000 đồng của chị Đồng Kim D thì bị bắt quả tang.

Bị cáo trộm cắp tài sản có giá trị là 1.233.000 đồng về định lượng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo có 03 tiền án và chưa được xóa án tích nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” đúng theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 như truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ.

 [2] Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để lén lút chiếm đoạt tài sản bằng hành vi trộm cắp. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, làm mất trật tự trị an ở địa phương. Xét bị cáo là thanh niên, thuộc thành phần lao động, có sức khỏe, bị cáo biết rõ trộm cắp tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì mục đích vụ lợi muốn chiếm đoạt tài sản của người khác thành của riêng mình nên khi lượng hình cần xử bị cáo một mức án thật nghiêm, tương xứng với hành vi và mức độ phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt cũng nhằm răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

 [3] Tuy nhiên, bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 và cũng được xem xét áp dụng khi lượng hình.

 [4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Ngày 15/01/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Bình đã tiến hành trao trả cho bị hại Đồng kim D: 01 điện thoại di động hiệu Asus, màn hình cảm ứng, màu đen; 01 mắt kính hiệu XEYE, gọng kính màu nâu, hai tròng kính màu trắng.

 [5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản xong và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo H phải nộp số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

 [7] Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; Điều 33; các điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;

- Tuyên bố bị cáo Trương Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Trương Ngọc H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 22/12/2017.

2. Về xử lý vật chứng: Đã xử lý xong.

3. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản xong và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trương Ngọc H phải nộp số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với những người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày được tính kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/HS-ST ngày 20/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về