Bản án 06/2018/HS-ST ngày 15/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 06/2018/HS-ST NGÀY 15/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2018, tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 85/2017/TLST- HS ngày 19  tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Tin L, sinh năm 1998. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn 3, xã ĐN, huyện ĐS, tỉnh TH; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 5/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: (không rõ) con bà: Dương Thị T, sinh năm 1977; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ theo Quyết định truy nã từ ngày 31/10/2017 đến ngày 03/11/2017 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. “Có mặt”.

Người bị hại: Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm 1965.

Cư trú tại: Số nhà 10, LHL, phường LS, TP TH , tỉnh TH. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài cá nhân, khoảng 7 giờ 30 sáng ngày 01/10/2017, Nguyễn Tin L đến nhà chị Nguyễn Thị Ngọc A (Số nhà 10, LHL, phường LS, TP TH , tỉnh TH) là nơi làm cũ của L nhằm mục đích trộm cắp tài sản. Tại nhà chị Ngọc A , sau khi nói chuyện xã giao với L chị Ngọc A xuống bếp ăn sáng, L phát hiện chiếc điện thoại Samsung màu vàng của chị Ngọc A để trong túi đặt trên kệ, L quan sát không có ai chú ý nên đã lấy điện thoại bỏ vào túi quần, ngay sau đó đi ra đón xe ôm đến cửa hàng điện thoại số 230 NT, phường TS, thành phố Thanh Hóa, L nói với chị Phạm Thị T (chủ của hàng) là điện thoại của L, cần tiền nên bán. Chị T đã mua điện thoại của L với giá 3.500.000đ, số tiền bán điện thoại L chi tiêu cá nhân hết.

Sau khi phát hiện bị mất điện thoại, chị Ngọc A nghi ngờ L lấy nên đã trình báo công an phường Lam Sơn đồng thời đi tìm L . Chị A gặp L tại quán game, L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và dẫn chị Ngọc A đến cửa hàng điện thoại 230 NT, chị A đã chuộc lại điện thoại với giá 3.900.000đ và giao nộp cho Cơ quan điều tra.

Ngày 09/10/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thanh Hóa tiến hành định giá kết quả định giá chiếc điện thoại Samsung A510 số IMEL 353761/08/127971/3 có trị giá 4.000.000đ (bốn triệu đồng). Ngày 30/11/2017 Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho người bị hại. Chị Ngọc A đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu L phải bồi thường cho chị số tiền chị đã chuộc điện thoại.

Đối với chị Phạm Thị T, khi mua điện thoại của L chị T không biết đây là tài sản do L phạm tội mà có nên không xử lý.

Tại cơ quan điều tra, L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án.

Tại bản cáo trạng số 12/CTr-VKS-SH ngày 18 tháng 12 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Nguyễn Tin Lvề tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX: Áp dụng khoản 1 điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 - BLHS 1999 xử phạt Nguyễn Tin L từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ; Truy thu xung quỹ Nhà Nước của Nguyễn Tin L 3.500.000đ là tiền thu lợi bất chính; Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng sự khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Tin L thừa nhận: Khoảng 7 giờ 30 phút, ngày 01/10/2017 tại nhà chị Ngọc A (số 10 LHL, phường LS, TP TH) Nguyễn Tin L đã lợi dụng sơ hở của chị Nguyễn Thị Ngọc A trong việc quản lý tài sản, L đã lén lút chiếm đoạt của chị Ngọc A chiếc điện thoại di động Samsung A510 trị giá 4.000.000đ (bốn triệu đồng) sau đó bán cho chị Phạm Thị T lấy 3.5000.000 đồng, số tiền này L chi tiêu cá nhân hết. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Do vậy, HĐXX có đầy đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Tin L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 138 của Bộ luật hình sự 1999

[2] Xét tính chất vụ án: Đây là vụ án tính chất ít nghiêm trọng, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, lén lút chiếm đoạt tài sản là chiếc điện thoại trị giá 4.000.000đ. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự trị an trong khu vực, thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Bị cáo còn trẻ nhưng không chịu lao động, tu dưỡng rèn luyện, vì muốn có tiền chi tiêu cá nhân nhưng không chịu lao động, bị cáo đã trộm cắp tài sản của người khác để bán lấy tiền; Sau khi pham tội bị cáo đã bỏ trốn, cơ quan điều tra đã phải truy nã đối với bị cáo. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tính răn đe giáo dục đối với bị cáo đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Bị cáo có các tình tiết giám nhẹ trách nhiệm hình sự là: Thành khấn khai báo; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 - Bộ luật hình sự 1999. Do vậy HĐXX xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Nguyễn Thị Ngọc A đã chuộc lại tài sản bị mất và không yêu cầu bị cáo L bồi thường gì nên HĐXX không xét.

[5] Đối với đề nghị của đại diện viện kiểm sát về truy thu sung quỹ Nhà Nước số tiền 3.500.000đ bị cáo có được do bán chiếc điện thoại trộm cắp của chị Ngọc A . HĐXX xét, số tiền này là tài sản của chị Ngọc A nên chị Ngọc A có quyền tự định đoạt, nay chị Ngọc A không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên bị cáo không phải chịu trách nhiệm trả lại số tiền này, do đó không truy thu đối với bị cáo.

[6] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 BLTTHS; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 138; điểm h, p khoản 1 - Điều 46; Điều 33 - Bộ luật hình sự 1999

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tin L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt: Nguyễn Tin L 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ.

- Về bồi thường dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì, HĐXX không xét.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 - Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Tin L phải chịu 200.000đ án phí HSST.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Tin L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại Nguyễn Thị Ngọc A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/HS-ST ngày 15/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về