Bản án 06/2018/HS-ST ngày 05/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 06/2018/HS-ST NGÀY 05/04/2018 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 4 năm 2018 tại Trung tâm văn hóa thể thao và truyền thông huyện L, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Chu Văn H, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1986 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nguyên làm ruộng; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Chu Văn C, sinh năm 1964 và bà: Trần Thị T (đã chết); mẹ kế là Hà Thị M, sinh năm 1968; có vợ là Trần Thị N, sinh năm 1985 (đã ly hôn năm 2017); có 02, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 05-3-2005, bị Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn xử lý hành chính phạt cảnh cáo về hành vi cố ý gây thương tích; ngày 28-8-2006, bị Tòa phúc thẩm tại Hà Nội Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 07 năm tù về tội: Hiếp dâm; bị bắt tạm giữ ngày 22/12/2017, bị tạm giam từ ngày 25/12/2017 đến nay, có mặt.

- Bị hại: Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Địa chỉ: Khu C, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Hoàng Văn L: Phó Giám đốc Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Địa chỉ: Khu C, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn: Là người đại diện theo ủy quyền của bị hại (Giấy ủy quyền ngày 21/12/2017), có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trog hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 01 giờ 30 phút, ngày 20 tháng 12 năm 2017, bị cáo Chu Văn H đã có hành vi trộm cắp tiền với các mệnh giá khác nhau trong tủ các bàn làm việc tại bộ phận thu ngân của Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn, thuộc khu C, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Tổng số tiền bị cáo trộm cắp được là 74.200.000 đồng. Sau khi trộm được tiền bị cáo đã tiêu sài cá nhân hết 9.800.000 đồng, Cơ quan điều tra đã thu giữ được của bị cáo số tiền 64.400.000 đồng và những vật chứng có liên quan khác.

Bản cáo trạng số 05/CT-VKSLB, ngày 02 tháng 3 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Chu Văn H về tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận phạm tội trộm cắp tài sản. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Chu Văn H về tội: Trộm cắp tài sản. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Chu Văn H phạm tội: Trộm cắp tài sản. Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999; xử phạt bị cáo Chu Văn H từ 36 đến 42 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo nghiện chất ma túy, không có việc làm. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Áp dụng khoản 1 Điều 584 của Bộ luật Dân sự. Bị cáo phải có trách nhiệm trả cho Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn số tiền 10.850.000 đồng. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trả lại cho Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn số tiền 64.400.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 01 đèn pin, 01 thanh sắt, 01 chiếc áo khoác gió màu xanh rêu, 01 quần ngủ màu ghi xám, 01 đôi dầy vải, 01 chiếc mũ vải màu đen; tịch thu, hóa giá sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu ghi. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Ông Hoàng Văn L là người đại diện hợp pháp của bị hại Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa cho biết: Rạng sáng ngày 20/12/2017, Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn đã bị kẻ gian vứt bỏ camera, phá khóa đột nhập vào phòng thu ngân lấy đi số tiền 74.200.000 đồng với nhiều mệnh giá khác nhau để trong các bàn thu ngân. Tài sản bị mất trộm được cơ quan chức năng xác định là do bị cáo Chu Văn H trộm cắp. Nay Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm trả lại số tiền 74.200.000 đồng và bồi thường tiền thay mắt camera là 1.050.000 đồng. Đối với một số tài sản khác như ổ khóa, ô kính bị hư hỏng phải thay mới nhưng giá trị không đáng kể nên bị hại không có yêu cầu gì về những tài sản đó. Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn đề nghị xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà bị cáo Chu Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Cụ thể: Do có quan sát từ trước nên bị cáo biết trong nhà thu ngân của Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn có cất giữ tiền viện phí nên bị cáo đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 20/12/2017, bị cáo mang theo 01 thanh sắt, 01 đèn pin, đầu đội mũ lưỡi trai màu đen, mặt đeo khẩu trang đến thẳng nhà thu ngân của Trung tâm y tế huyện L. Sau khi soi đèn quan sát xung quanh bị cáo đã lấy thanh sắt móc vào dây nối mắt camera làm rơi xuống đất. Bị cáo đi đến cửa phòng thu ngân dùng đầu thanh sắt cậy ổ khóa, mở cửa khung sắt, dùng thanh sắt đập vào ô cửa kính để mở tiếp cửa kính khung nhôm bên trong. Sau khi vào được phòng bị cáo đã giật khóa tủ bàn thu ngân thứ nhất thấy có tiền mệnh giá 1.000 đồng và 2.000 đồng, bị cáo đã lấy toàn bộ; mở khóa bàn thu ngân tiếp theo bị cáo thấy có 03 cọc tiền, mỗi cọc với nhiều tờ tiền mệnh giá 100.00 đồng, 200.000 đồng, 500.000 đồng bị cáo đã lấy toàn bộ số tiền đó. Khi quay ra bị cáo đã nhặt ổ khóa, mắt camera cho vào túi nilon đi ra khỏi Trung tâm y tế, khi đến khu vực nhà Đại thể bị cáo đã vứt túi nilon rồi trèo qua cổng phụ ra ngoài. Bị cáo đi đến ngôi nhà hoang ở khu Đ, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn thì bỏ toàn bộ số tiền lấy ra đếm tất cả có 74.200.000 đồng. Bị cáo đã tiêu sài cá nhân hết 9.800.000 đồng, số tiền còn lại đã bị Công an thu giữ cùng một số tài sản khác. Đối với các tài sản đang bị thu giữ bị cáo không có yêu cầu được lấy lại mà đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo Chu Văn H: Bị cáo đã nhận thấy lỗi lầm của bản thân, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lộc Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Chu Văn H tại phiên tòa phù hợp với hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, và các chứng cứ tà liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; do đó có căn cứ xác định: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 20/12/2017, bị cáo Chu Văn H đã trộm cắp 74.200.000 đồng tại bộ phận thu ngân của Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Chu Văn H phạm tội: Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện thấy rằng: Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới quyền sở hữu về quyền tài sản của người khác, mà quyền này được pháp luật bảo vệ.

[4] Xét nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo là người nghiện chất ma túy; ngày 05-3-2005, bị cáo bị Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn xử lý hành chính phạt cảnh cáo về hành vi cố ý gây thương tích; ngày 28-8-2006, bị cáo bị Tòa phúc thẩm tại Hà Nội Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 07 năm tù về tội: Hiếp dâm (Ngày 17-01-2009, bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án). Tuy đây không phải là tiền án, tiền sự nhưng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu. Tại phiên toà hôm nay cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình gây ra là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền ăn tiêu, mua ma túy về sử dụng cho bản thân mà bị cáo vẫn cố ý trực tiếp và lén lút chiếm đoạt tài sản (tiền viện phí) của Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Hành vi mà bị cáo gây ra cần phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có thể giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng", do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ (Biên bản xác minh ngày 05/01/2018) và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện: Bị cáo làm ruộng, không có thu nhập ổn định, không có tài sản, nghiện chất ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đã đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị này là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Tại phiên tòa bị hại yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường tổng số tiền 75.250.000 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam bao gồm 74.200.000 đồng tiền viện phí bị mất và giá trị tiền thay mắt camera là 1.050.000 đồng. Số tiền đang được gửi giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Lạng Sơn sẽ được khấu trừ, bị hại yêu cầu bị cáo còn phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 10.850.000 đồng. Bị cáo cũng nhất trí bồi thường số  tiền 10.850.000 đồng cho bị hại. Xét thấy thỏa thuận này là phù hợp với các quy định của pháp luật, thể hiện sự tự nguyện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ số tiền 64.400.000 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam được niêm phong trong 03 phong bì thư khác nhau, có chữ ký của những người tham gia và được đóng 05 hình con dấu ở các mép giáp lai, cụ thể: Phong bì ký hiệu 01 gồm 72 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng =36.000.000 đồng, Phong bì ký hiệu 02 gồm 96 tờ mệnh giá 200.000 đồng = 19.200.000 đồng, Phong bì ký hiệu 03 gồm 92 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng= 9.200.000 đồng; 01 đèn pin đeo trên đầu; 01 thanh sắt chiều dài 76cm, đường kính 01cm, có một đầu cong nhọn; 01 chiếc áo khoác gió màu xanh rêu trước ngực bên trái có chữ ShadyItd, cánh tay trái áo khoác có chữ CHAMPIONSHIP, mép túi hai bên áo có chữ SMOKING TIME, áo cũ đã qua sử dụng; 01 quần ngủ màu ghi xám có viền đỏ thắt dây chun, mép túi hai bên quần có séc măng tia màu đỏ, ống quần bên trái phía trước có nhãn mác thương hiệu chữ LI – NING màu xanh, trên đũng quần có viền kẻ màu đỏ được vắt ngang hông; 01 đôi giầy vải không dây màu đen có đế màu trắng, giầy cũ đã qua sử dụng; 01 chiếc mũ vải màu đen phía trước mũ có chữ NY lồng nhau (màu trắng), bên trái có hai vòng tròn, vòng tròn bên ngoài có chữ NEW YORK, vòng tròn bên trong có chữ NY; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu ghi, máy cũ đã qua sử dụng, số IMEI 1: 35440508063363 2, số IMEI 2: 354405081278635. Đối với các vật chứng khác Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thu giữ được. Căn cứ vào Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, xét thấy: Đối với số tiền 64.400.000 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam là số tiền bị cáo đã trộm cắp của bị hại nên cần trả lại cho bị hại. Đối với 01 đèn pin, 01 thanh sắt, 01 chiếc áo khoác gió, 01 quần ngủ, 01 đôi giầy vải, 01 chiếc mũ vải có liên quan đến hành vi phạm tội, không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 chiếc điện thoại OPPO bị cáo không có yêu cầu lấy lại nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước

[10] Bị cáo Chu Văn H bị kết án nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm; tại phiên tòa bị cáo và đương sự thỏa thuận được với nhau về việc bồi thường thiệt hại, cụ thể bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 10.850.000 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam nên bị cáo phải có nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự là 542.500 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c, f khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[11] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm e khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Chu Văn H phạm tội: Trộm cắp tài sản.

2. Hình phạt: Phạt bị cáo Chu Văn H 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 22-12-2017.

3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 42 của Bộ luật Hình sự năm 1999, khoản 5 Điều 275, 357, khoản 2 Điều 468, 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự. Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Chu Văn H và bị hại Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn, cụ thể: Bị cáo Chu Văn H phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn số tiền 10.850.000 đồng (mười triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) tiền Ngân hàng Việt Nam.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu của người thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

4. Xử lý vật chứng

Căn cứ Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại cho Trung tâm y tế huyện L, tỉnh Lạng Sơn số tiền 64.400.000 đồng (sáu mươi tư triệu bốn trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng Việt Nam được niêm phong trong 03 phong bì thư khác nhau, có chữ ký của những người tham gia và được đóng 05 hình con dấu ở các mép giáp lai, cụ thể: Phong bì ký hiệu 01 gồm 72 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng = 36.000.000 đồng, Phong bì ký hiệu 02 gồm 96 tờ mệnh giá 200.000 đồng = 19.200.000 đồng, Phong bì ký hiệu 03 gồm 92 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng = 9.200.000 đồng. Tịch thu, tiêu hủy 01 đèn pin đeo trên đầu; 01 thanh sắt chiều dài 76cm, đường kính 01cm, có một đầu cong nhọn; 01 chiếc áo khoác gió màu xanh rêu trước ngực bên trái có chữ ShadyItd, cánh tay trái áo khoác có chữ CHAMPIONSHIP, mép túi hai bên áo có chữ SMOKING TIME, áo cũ đã qua sử dụng; 01 quần ngủ màu ghi xám có viền đỏ thắt dây chun, mép túi hai bên quần có séc măng tia màu đỏ, ống quần bên trái phía trước có nhãn mác thương hiệu chữ LI – NING màu xanh, trên đũng quần có viền kẻ màu đỏ được vắt ngang hông; 01 đôi giầy vải không dây màu đen có đế màu trắng, giầy cũ đã qua sử dụng; 01 chiếc mũ vải màu đen phía trước mũ có chữ NY lồng nhau (màu trắng), bên trái có hai vòng tròn, vòng tròn bên ngoài có chữ NEW YORK, vòng tròn bên trong có chữ NY.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu ghi, máy cũ đã qua sử dụng, số IMEI 1: 354405080633632, số IMEI 2: 354405081278635. (Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05 tháng 3 năm 2018).

5. Án phí

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c, f khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Chu Văn H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 542.500 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự. Tổng cộng là 742.500 đồng (bẩy trăm bốn mươi hai nghìn năm trăm đồng) tiền Ngân hàng Việt Nam để sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/HS-ST ngày 05/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về