Bản án 06/2018/HNGĐ-ST ngày 31/01/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 06/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/01/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 31 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 465/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 11 năm 2017 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà TTKQ, sinh năm 1976; địa chỉ: Tổ 3, khu phố M, phường TH, thị xã T U, tỉnh B D, có mặt.

- Bị đơn: Ông NTH, sinh năm 1973; địa chỉ: Tổ 3, khu phố M, phường TH, thị xã T U, tỉnh B D, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 31/10/2017, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà TTKQ trình bày:

Bà Q và ông NTH tự nguyện quen biết, tìm hiểu nhau được 3 năm, được sự đồng ý của 2 bên gia đình, bà Q và ông H tổ chức đám cưới năm 1994; đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn T P K, huyện T U, tỉnh B D ngày14/12/1998. Sau khi kết hôn, thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Từ năm 2012 đến nay, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, ông H đã có mối quan hệ với người phụ nữ khác, không quan tâm, chăm sóc vợ con. Bà Q với ông H đã ly thân từ đó đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Q khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết nhữngvấn đề sau:

Về hôn nhân: Bà TTKQ yêu cầu được ly hôn với ông NTH.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên NTAT, sinh ngày 16/9/1995 và NTQV, sinh ngày 29/4/2005. Sau khi ly hôn, bà Q yêu cầu được nuôi con chung NTQV, không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con. Con chung NTAT đã thành niên, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chứng cứ do nguyên đơn xuất trình là bản sao chứng minh nhân, Sổ hộ khẩu của bà TTKQ; Giấy chứng nhận kết hôn; Giấy khai sinh NTAT và NTQV; Bản tự khai của bà TTKQ.

Bị đơn ông NTH được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 05/12/2017 và ngày 26/12/2017 nhưng ông H vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà Q. Ngày 22/01/2018, ông H có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm tại phiên toà sơ thẩm như sau:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên toà, nhữngngười tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng trình tự, thủ tục theo qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Q về việc xin ly hôn với ông H; giao con chung là cháu NTQV cho bà Q nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện của bà Q về việc không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về việc vắng mặt bị đơn ông NTH: Ngày 22/01/2018, ông H có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt ông H.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà TTKQ và ông NTH là những người đủ điều kiện kết hôn, chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn T P K, huyện T U (nay là phường T P K, thị xã T U), tỉnh B D, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 01/98 ngày 14/12/1998, đây là hôn nhân hợp pháp.

[3]. Về mâu thuẫn vợ chồng: Bà Q xác định quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, ông H không quan tâm chăm sóc vợ con, hiện bà Q và ông H đã ly thân được khoảng 5 năm. Vì mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Q yêu cầu được ly hôn với ông H. Ông H được Tòa án triệu tập hợp lệ để hoà giải, tham gia phiên toà nhưng ông H không đến và không có ý kiến, điều này cho thấy ông H không quan tâm và cũng không có thiện chí để Tòa án hòa giải, vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con cái. Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng bà Q và ông H là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Q yêu cầu được ly hôn với ông H là có cơ sở chấp nhận.

[4]. Về việc nuôi con chung: Bà Q và ông H có 02 con chung tên NTAT, sinh ngày 16/9/1995 và NTQV, sinh ngày 29/4/2005. NTAT đã thành niên nên Tòa án không xem xét giải quyết nuôi T sau khi ly hôn.

Đối với việc nuôi dưỡng cháu NTQV, bà Q yêu cầu được nuôi cháu V, không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con. Bản tự khai ngày 14/11/2017, cháu V có nguyện vọng được sống chung với mẹ; ông H không có ý kiến về việc nuôi con. Do đó, việc bà Q yêu cầu cầu được trực tiếp nuôi con là có căn cứ, phù hợp quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6]. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ.

[8]. Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Các Điều 26, 35, 92, 147, 227, 228, 266, 271, 273 và 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà TTKQ về việc xin ly hôn với ông NTH như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà TTKQ được ly hôn với ông NTH.

- Về con chung: Giao cháu NTQV cho bà TTKQ trực tiếp nuôi dưỡng, ông NTH không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà TTKQ và ông NTH đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người được trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà TTKQ phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0013404, ngày 26/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà TTKQ có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn ông NTH vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/HNGĐ-ST ngày 31/01/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:06/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về