Bản án 06/2018/HNGĐ-ST ngày 11/01/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 06/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Vào hồi 9 giờ 30 phút, ngày 11 tháng 01 năm 2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 136/2017/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2017/QĐXX-ST ngày 11 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị C – Sinh năm 1995

Địa chỉ: Xóm Trường H, xã Xuân T, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Trần Văn L – Sinh năm 1989

Địa chỉ: Xóm Trường T, xã Xuân T, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh ( Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai của người xin ly hôn cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Văn L có đăng ký hết hôn với nhau ngày 13/3/2014 tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Trường, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng hơn một năm nay anh Lánh không chịu khó làm ăn, chăm lo gia đình, dẫn đến vợ chồng hay xảy mâu thuẫn, ngày 16 tháng 9 năm 2017 chị C đã về bên ngoại sinh sống và ly thân từ đó đến nay. Nay chị C thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa và xin được ly hôn với anh L.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Thị Thùy C sinh ngày 28/5/2016, hơn 01 tháng nay anh L đưa con về bên nội và cản trở không cho chị đưa con về chăm sóc. Nếu ly hôn, chị xin được nuôi cháu Trần Thị Thùy C và không yêu cầu anh L trợ cấp tiền nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng, bị đơn đã nhận được nhưng vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai, hòa giải theo quy định của pháp luật. Sau khi đưa vụ án ra xét xử Tòa đã triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn không tham gia phiên tòa lần 1, HĐXX hoãn phiên tòa. Tòa án đã tiến hành niêm yết Quyết định hoãn phiên tòa do bị đơn vắng mặt tại địa phương vào ngày 26 tháng 12 năm 2017 nhưng phiên tòa hôm nay bị đơn vắng mặt không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1]. Về tố tụng: Anh Trần Văn L đã nhận được thông báo hợp lệ nhưng không chấp hành, không tham gia phiên tòa vì vậy căn cứ điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

 [ 2]. Xét quan hệ hôn giữa anh Trần Văn L và chị Lê Thị C HĐXX nhận thấy đây là hôn nhân hợp pháp các bên không vi phạm điều kiện và đăng ký kết hôn quy định tại điều 8, 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung hạnh phúc, đến ngày 16/9/ 2017 ly thân cho đến nay do thường xuyên mâu thuẫn. Nay chị C không còn tình cảm với anh L, hạnh phúc gia đình không thể hàn gắn được, chị yêu cầu được ly hôn.

Đối với anh Trần Văn L, tuy Tòa án không lấy được lời khai nhưng quá trình giải quyết vụ án cho thấy bị đơn hoàn toàn không quan tâm đến hôn nhân của mình, thể hiện như từ bỏ tham gia tố tụng, không tham gia hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Xét thấy hôn nhân của các đương sự đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thiết nghĩ cần xử ly hôn để chị Lê Thị C, anh Trần Văn L tạo lập cuộc sống mới là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3]. Về con chung: Sau khi ly hôn các đương sự không thỏa thuận được việc nuôi con, nguyện vọng của nguyên đơn được nuôi con chung không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng, bị đơn từ bỏ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật nên tòa không thể lấy ý kiến của bị đơn về quan hệ con chung. Qua xác minh hiện anh L không có mặt tại địa phương đi đâu, làm gì địa phương không nắm được nhưng con chung của vợ chồng do ông bà nội nuôi dưỡng tại xóm Trường Hải. Căn cứ vào các khoản 1, 2 điều 81; điều 82; điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của chị C là chính đáng, con chung của vợ chồng dưới 36 tháng tuổi, do đó cần giao cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng, anh L không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung là hợp lý. [4]. Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu HĐXX miễn xét.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39, khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Khoản 1 điều 51, khoản 1 điều 56, điều 57, điều 58, điều 81, điều 82 và điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị C được ly hôn với anh Trần Văn L.

[2] Về con chung: Giao con chung Trần Thị Thùy C sinh ngày 28/5/2016 cho chị Lê Thị C trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (18 tuổi). Tạm thời anh Lánh không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền thăm con chung không ai được phép cản trở.

[3] Về án phí: Chị Lê Thị C phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn và được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000530 ngày 23/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/HNGĐ-ST ngày 11/01/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:06/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về