Bản án 06/2018/HNGĐ-ST ngày 07/02/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 06/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/02/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 07 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn- tỉnh Hoà Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:219/2017/TLST-HNGĐ ngày 13/12/2017 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/01/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Quách Văn T, sinh năm 1989; cư trú và làm việc: xóm Đồi

Cả, xã Mỹ Thành, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình (có mặt);

- Bị đơn: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1989. Nơi đăng ký NKTT: xóm Đồi Cả,

xã Mỹ Thành, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn và các lời khai của mình, nguyên đơn anh Quách Văn T trình bày:

1. Về hôn nhân:

Anh Quách Văn T và chị Nguyễn Thị Q có tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau tháng 5/2012 trên cơ sở tự nguyện và hợp pháp. Sống với nhau đến năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do không tin tưởng lẫn nhau. Chị Q bỏ nhà đi và sống ly thân với anh  T từ đó. Thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh xin ly hôn để giải phóng cho cả hai và ổn định cuộc sống.

2. Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Quách Minh Anh, sinh ngày 09/4/2013. Hiện cháu Minh Anh đang sống cùng anh  T. Do hiện tại chị Q không có mặt tại địa phương nên khi ly hôn anh  T xin trực tiếp nuôi dưỡng cháu Minh Anh và chưa yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con chung với anh.

3. Về tài sản chung; Công nợ chung: anh  T khai không có. Ngoài ra anh  T không có yêu cầu gì thêm.

Chị Q vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa.

Phát biểu quan điểm tại phiên toà, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình công nhận việc chấp hành đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, HĐXX và các đương sự từ khi thụ lý đến trước khi HĐXX nghị án. Về giải quyết vụ án Kiểm sát viên đề nghị như sau:

Về tố tụng: chị Q được tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và các văn bản tố tụng khác nhưng không chấp hành. Phiên tòa đã phải hoãn một lần do đó đề nghị HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt chị Q theo thủ tục chung là có cơ sở theo qui định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về hôn nhân: Xác định mâu thuẫn giữa anh  T và chị Q đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh  T là phù hợp Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014.

Về con chung: do con chung của anh  T và chị Q là cháu Quách Minh Anh, sinh ngày 09/4/2013 hiện đang sống cùng anh  T; chị Q không có mặt tại địa phương nên khi ly hôn đề nghị chấp nhận yêu cầu của anh  T là giao cháu Minh Anh cho anh  T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh  T chưa yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con chung với anh nên đề nghị chấp nhận yêu cầu của anh  T là phù hợp các Điều 58; 81; 82; 83 Luật HN&GĐ năm 2014.

Về tài sản chung; công nợ chung: anh  T khai nhận không có nên đề nghị HĐXX không đề cập giải quyết trong vụ án. Ngoài ra không ai có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa và căn cứ ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa HĐXX nhận định:

[1] Chị Nguyễn Thị Q đăng ký nhân khẩu thường trú tại xóm Đồi Cả- xã Mỹ Thành- huyện Lạc Sơn- tỉnh Hoà Bình. Quá trình giải quyết vụ án, chị Q đi làm ăn xa nhưng không thông báo địa chỉ mới nên Tòa án không thể tống đạt được giấy triệu tập cho chị Q. Thỉnh thoảng chị Q vẫn về liên lạc với gia đình tại tại xóm Đồi Cả- xã Mỹ Thành. Theo qui định tại Điều 177; 179 Bộ luật tố tụng dân sự, TAND huyện Lạc Sơn đã tiến hành niêm yết công khai các giấy tờ tố tụng và thông báo cụ thể cho chị Q biết về thời gian triệu tập nhưng chị Q không chấp hành theo giấy triệu tập. Phiên tòa đã phải hoãn một lần do đó HĐXX vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị Q theo thủ tục chung là có cơ sở theo qui định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về hôn nhân: Quá trình giải quyết vụ án và xác minh tại địa phương HĐXX xét thấy:

Quan hệ hôn nhân giữa chị Q và anh  T là hợp pháp. Cuộc sống chung vợ chồng thực sự có mâu thuẫn do không tin tưởng nhau. Hiện hai người đã sống ly thân. Từ những nhận định trên thấy mâu thuẫn giữa chị Q và anh  T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh  T với chị Q là phù hợp Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về con chung:

Chị Q và anh  T có 01 con chung là Quách Minh Anh, sinh ngày 09/4/2013. Hiện cháu Minh Anh đang sống cùng anh  T; chị Q không có mặt tại địa phương nên khi ly hôn cần chấp nhận yêu cầu của anh  T là giao cháu Minh Anh cho anh  T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh  T chưa yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con chung với anh.

Theo kết quả xác minh tại địa phương thấy: Hiện tại chị Q bỏ đi làm ăn xa, không có mặt tại địa phương. Anh  T có công việc và chỗ ở ổn định đủ khả năng nuỗi dưỡng, chăm sóc giáo dục con. Xuất phát từ điều kiện thực tế của các bên đương sự và quyền lợi mọi mặt của con chưa thành niên; căn cứ các Điều 58; 81; 82; 83 Luật HN&GĐ năm 2014, HĐXX thấy cần chấp nhận yêu cầu của anh  T là giao cháu Minh Anh cho anh  T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Q có quyền đi lại thăm con chung không ai được cản trở.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Anh  T chưa yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Căn cứ kết quả xác minh tại địa phương về điều kiện nuôi con của anh T; căn cứ các Điều 82; 83 Luật HN&GĐ năm 2014 HĐXX xét thấy chưa cần thiết giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung trong vụ án. Việc cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu.

[4]. Về tài sản chung; Công nợ chung: Anh  T khai không có nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[5]. Về án phí: Anh T phải chịu án phí theo qui định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điều 51; khoản 1 Điều 56; 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn Nhân- Gia Đình năm 2014; khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Xử chấp nhận yêu cầu của anh Quách Văn T: Cho anh Quách Văn T được ly hôn chị Nguyễn Thị Q.

- Về con chung: Giao con chung là Quách Minh Anh, sinh ngày 09/4/2013 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 2/2018 trở đi cho đến khi cháu Minh Anh đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác. Anh  T chưa yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con chung với anh. Chị Q có quyền đi lại thăm con chung không ai được cản trở.

- Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự buộc anh T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Đối trừ 300.000đ dự phí anh T đã nộp theo biên lai thu tiền số 0004267 ngày 13/12/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn, nay anh T không phải nộp án phí nữa.

Đã báo cho đương sự có mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày bản án hoặc trích lục án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai tại trụ sở UBND nơi cư trú của bị đơn.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/HNGĐ-ST ngày 07/02/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:06/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về